Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Nga – Pháp (1812)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Đã thêm nhãn {{Chú thích trong bài}} và {{Cần biên tập}}
(Không hiển thị 45 phiên bản của 21 người dùng ở giữa)
Dòng 1: Dòng 1:
{{Dablink|Cụm từ Chiến tranh Vệ quốc 1812 dẫn đến bài này. Không nên nhầm lẫn tới cuộc [[Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại]], cái tên Nga cho cuộc [[chiến tranh thế giới thứ hai]] diễn ra ở phía [[đông Âu|đông châu Âu]]}}
{{Dablink|Cụm từ Chiến tranh Vệ quốc 1812 dẫn đến bài này. Không nên nhầm lẫn tới cuộc [[Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại]], cái tên Nga cho cuộc [[chiến tranh thế giới thứ hai]] diễn ra ở phía [[đông Âu|đông châu Âu]]}}
{{Nhiều vấn đề|
{{Chú thích trong bài|date=tháng 5/2024}}
{{Cần biên tập|date=tháng 5/2024}}
}}
{{Infobox military conflict
{{Infobox military conflict
| conflict = Chiến tranh Pháp-Nga<br /><small>(Chiến tranh Vệ quốc 1812)</small>
| conflict = Chiến tranh Pháp-Nga<br /><small>(Chiến tranh Vệ quốc 1812)</small>
| partof = [[Các cuộc chiến tranh của Napoléon|Chiến tranh Napoléon]]
| partof = [[Các cuộc chiến tranh của Napoléon|Chiến tranh Napoléon]]
| image=[[Tập tin:Night Bivouac of Great Army.jpg|300px|century]]
| image=[[Tập tin:French invasion of Russia collage.jpg|300px|century]]
| caption= Theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái: Trận Borodino ( L.-F. Lejeune ); "Napoléon nhìn cuộc hỏa hoạn Mátxcơva" ( A. Adam ); "Michel Ney trong trận Kovno" ( O. Raffe ); "Pháp rút quân khỏi Nga" ( I. M. Pryanishnikov ).
| caption= Quân Pháp chìm trong bão tuyết trên đường rút lui.
| date = [[24 tháng 6]] — [[14 tháng 12]] năm [[1812]]
| date = [[24 tháng 6]] — [[14 tháng 12]] năm [[1812]]
| place = [[Đế quốc Nga|Nga]]
| place = [[Đế quốc Nga|Nga]]
| result = Chiến thắng quyết định của Nga,<ref name=klaus>von Clausewitz, Carl (1996). ''The Russian campaign of 1812''. Transaction Publishers. Introduction by Gérard Chaliand, VII. ISBN 1-4128-0599-6</ref><br />Đội quân liên minh của Pháp bị tiêu diệt. Quân Pháp chết gần hết do chiến đấu, hoặc do đói và lạnh<br />Bắt đầu [[Chiến tranh Liên minh thứ sáu|Chiến tranh với Liên minh thứ sáu]]
| result = Chiến thắng quyết định của Nga,<ref name=klaus>von Clausewitz, Carl (1996). ''The Russian campaign of 1812''. Transaction Publishers. Introduction by Gérard Chaliand, VII. ISBN 1-4128-0599-6</ref><br />Đội quân liên minh của Pháp bị tiêu diệt gần hết do chiến đấu, do bệnh tật, hoặc do đói và lạnh<br />Bắt đầu [[Chiến tranh Liên minh thứ sáu|Chiến tranh với Liên minh thứ sáu]]
| combatant1 = {{flagicon image|Flag of France (1794–1815, 1830–1958).svg}} [[Đế chế thứ nhất|Đế chế Pháp]]<br />
| combatant1 = {{flagicon image|Flag of France (1794–1815, 1830–1974, 2020–present).svg}} [[Đế chế thứ nhất|Đế chế Pháp]]<br />
* {{flagicon image|Flag_of_the_Duchy_of_Warsaw.svg|size=22px}} [[Đại Công quốc Warszawa]]
* {{flagicon image|Flag_of_the_Duchy_of_Warsaw.svg|size=22px}} [[Đại công quốc Warszawa]]
* {{flagicon|Napoleonic Italy}} [[Vương quốc Ý thuộc Napoleon|Ý]]
* {{flagicon|Napoleonic Italy}} [[Vương quốc Ý thuộc Napoleon|Ý]]
* {{flagicon|Two Sicilies|1811}} [[Vương quốc Napoli thuộc Napoleon|Napoli]]
* {{flagicon|Two Sicilies|1811}} [[Vương quốc Napoli thuộc Napoleon|Napoli]]
* {{flagicon image|Alleged_flag_of_the_Rhine_Confederation_1806-13.svg}} [[Liên bang sông Rhine]]
* [[Liên bang sông Rhine]]
** [[Tập tin:Flagge Großherzogtum Baden (1891-1918).svg|border|22px]] [[Đại Công quốc Baden|Baden]]
** [[Tập tin:Flagge Großherzogtum Baden (1891-1918).svg|border|22px]] [[Đại công quốc Baden|Baden]]
** {{flagicon|Bavaria}} [[Vương quốc Bayern|Bayern]]
** {{flagicon|Bavaria}} [[Vương quốc Bayern|Bayern]]
** [[Tập tin:Flag of the Grand Duchy of Berg (1806-1808).svg|border|22px]] [[Đại Công quốc Berg|Berg]]
** [[Tập tin:Flag of the Grand Duchy of Berg (1806-1808).svg|border|22px]] [[Đại công quốc Berg|Berg]]
** {{flagicon image|State flag of Saxony before 1815.svg|size=22px}} [[Vương quốc Sachsen|Saxony]]
** {{flagicon image|State flag of Saxony before 1815.svg|size=22px}} [[Vương quốc Sachsen|Sachsen]]
** [[Tập tin:Flag of the Kingdom of Westphalia.svg|border|22px]] [[Vương quốc Westphalia|Westphalia]]
** [[Tập tin:Flag of the Kingdom of Westphalia.svg|border|22px]] [[Vương quốc Westphalia|Westphalia]]
* {{flagicon|Thụy Sĩ}} [[Liên bang Thụy Sĩ thuộc Napoleon|Liên bang Thụy Sĩ]]
* {{flagicon|Thụy Sĩ}} [[Liên bang Thụy Sĩ thuộc Napoleon|Liên bang Thụy Sĩ]]
Dòng 22: Dòng 26:
{{flagicon|Austrian Empire}} [[Đế quốc Áo (1804–1867)|Áo]]<br />{{Flag icon|Prussia|1803}} [[Vương quốc Phổ|Phổ]]
{{flagicon|Austrian Empire}} [[Đế quốc Áo (1804–1867)|Áo]]<br />{{Flag icon|Prussia|1803}} [[Vương quốc Phổ|Phổ]]
| combatant2 = {{flagcountry|Russian Empire}}
| combatant2 = {{flagcountry|Russian Empire}}
| commander1 = {{plainlist|{{smalldiv|
| commander1 = {{flagicon image|Flag of France (1794–1815, 1830–1958).svg}} [[Napoléon Bonaparte]]<br />{{flagicon image|Flag of France (1794–1815, 1830–1958).svg}} [[Louis-Alexandre Berthier]]<br />{{flagicon image|Flag of France (1794–1815, 1830–1958).svg}} [[Louis Nicolas Davout]]<br />{{flagicon image|Flag of France (1794–1815, 1830–1958).svg}} [[Michel Ney]]<br />{{flagicon image|Flag of France (1794–1815, 1830–1958).svg}} [[Jacques MacDonald]]<br />{{flagicon image|Flag of France (1794–1815, 1830–1958).svg}} [[Nicolas Oudinot]]<br />[[Tập tin:Flag of the Kingdom of Westphalia.svg|border|22px]] [[Jérôme Bonaparte]]<br />{{flagicon image|Flag_of_the_Duchy_of_Warsaw.svg|size=22px}} [[Józef Poniatowski]]<br />{{Flag icon|Two Sicilies|1811}} [[Joachim Murat]]<br />{{Flag icon|Napoleonic Italy}} [[Eugène de Beauharnais]]<br />{{Flag icon|Austrian Empire}} [[Karl Philipp, Hoàng tử Schwarzenberg|Karl Philipp]]<br />{{Flag icon|Prussia|1803}} [[Ludwig Yorck von Wartenburg|Johann Yorck]]
* {{flagicon|First French Empire}} '''[[Napoléon|Napoléon I]]'''
| commander2 = [[Tập tin:Standard of the Emperor of Russia (1858).svg|23px]] [[Aleksandr I của Nga|Aleksandr I]]<br />{{Flag icon|Russian Empire}} [[Mikhail Illarionovich Kutuzov|Mikhail Kutuzov]]<br />{{Flag icon|Russian Empire}} [[Mikhail Bogdanovich Barklay-de-Tolli|Barklay-de-Tolli]]<br />{{Flag icon|Russian Empire}} [[Pyotr Bagration]]{{KIA}}<br />{{Flag icon|Russian Empire}} [[Pyotr Khristianovich Wittgenstein|Peter Wittgenstein]]<br />{{Flag icon|Russian Empire}} [[Alexander Tormasov]]<br />{{Flag icon|Russian Empire}} [[Pavel Chichagov]]
* {{flagicon|First French Empire}} [[Pierre Augereau]]
| strength1 = Khoảng 690.000<ref>The Logistics of War, DIANE Publishing, trg 180</ref><br>180.000 - 200.000 ngựa, gần 1.400 pháo
* {{flagicon|Napoleonic Italy}} [[Eugène de Beauharnais]]
| strength2 =Ban đầu: 488.000<br>Tổng động viên: 700.000 quân chính quy<ref>Osprey - Men At Arms 028 - The Russian Army Of The Napoleonic Wars tr 20</ref><br />223.361 dân quân ([[Opelchenie]])<ref>Russian Army of the Napoleonic Wars 1-Infantry Nhà xuất bản Osprey tr 37</ref>
* {{flagicon|First French Empire}} [[Jean-Baptiste Bessières]]
| casualties1 = Chết: 380.000.<br />Bị thương: 50.000<br />80.000 đào ngũ<br>'''Sống sót''': 120.000 (không tính những người đào ngũ từ trước), bao gồm 50.000 là người Áo và Phổ, 20.000 người Ba Lan và 35.000 người Pháp.<ref>Zamoyski, trg 536</ref>
* {{flagicon image|Flag of the Kingdom of Westphalia.svg|link=Kingdom of Westphalia}} [[Jérôme Bonaparte]]
| casualties2 = '''Chết:''' 210.000<ref name=Bogdanovich>Bogdanovich, "History of Patriotic War 1812", Spt., 1859–1860, Appendix, trg 492–503.</ref>}}
* {{flagicon|First French Empire}} [[Louis-Nicolas Davout]]
* {{flagicon|First French Empire}} [[Jean-Andoche Junot]]
* {{flagicon|First French Empire}} [[François Joseph Lefebvre]]
* {{flagicon|First French Empire}} [[Étienne Macdonald]]
* {{flagicon|First French Empire}} [[Édouard Mortier, Duke of Trévise|Édouard Mortier]]
* {{flagicon|Kingdom of Naples|1811}} [[Joachim Murat]]
* {{flagicon|First French Empire}} [[Michel Ney]]
* {{flagicon|First French Empire}} [[Nicolas Oudinot]]
* {{flagicon|Duchy of Warsaw}} [[Józef Poniatowski]]
* {{flagicon|First French Empire}} [[Jean Reynier]]
* {{flagicon|First French Empire}} [[Laurent de Gouvion Saint-Cyr|Laurent Saint-Cyr]]
* {{flagicon|Austrian Empire}} [[Karl Philipp, Prince of Schwarzenberg|Karl von Schwarzenberg]]
* {{flagicon|First French Empire}} [[Claude Victor-Perrin, Duc de Belluno|Claude Victor]]
* {{flagicon|Kingdom of Prussia|1803}} [[Ludwig Yorck von Wartenburg|Johann Yorck]]
}}}}
| commander2 = {{plainlist|{{smalldiv|
* {{flagicon|Russian Empire}} '''[[Alexander I of Russia|Alexander I]]'''
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Pyotr Bagration]]{{KIA}}
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Mikhail Barclay de Tolly]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Alexander von Benckendorff]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Levin August von Bennigsen|Levin von Bennigsen]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Pavel Chichagov]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Eufemiusz Czaplic]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Dmitry Dokhturov]]
*{{Flagicon|Russian Empire}} [[Dmitry Golitsyn]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Yakov Kulnev]]{{KIA}}
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Mikhail Kutuzov]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Charles de Lambert (soldier)|Charles de Lambert]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Mikhail Miloradovich]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Vasily Orlov-Denisov]]
* {{nowrap|{{flagicon|Russian Empire}} [[Alexander Ivanovich Ostermann-Tolstoy|Alexander Osterman-Tolstoy]]}}
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Fabian Gottlieb von der Osten-Sacken|Fabian Osten-Sacken]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Peter von der Pahlen]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Matvei Platov]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Nikolay Raevsky]]
*{{Flagicon|Russian Empire}} [[Pavel Alexandrovich Stroganov|Pavel Stroganov]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Alexander Tormasov]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Nikolay Tuchkov]]{{KIA}}
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Peter Wittgenstein]]
* {{flagicon|Russian Empire}} [[Aleksey Yermolov (general)|Aleksey Yermolov]]
}}}}
| strength1 = Khoảng 690.000<ref>The Logistics of War, DIANE Publishing, trg 180</ref><br>180.000 - 200.000 ngựa<br>1.393 khẩu pháo
| strength2 =Ban đầu: 488.000<br>Tổng động viên: 700.000 quân chính quy<ref>Osprey - Men At Arms 028 - The Russian Army Of The Napoleonic Wars tr 20</ref><br />223.361 dân quân ([[Opelchenie]])<ref>Russian Army of the Napoleonic Wars 1-Infantry Nhà xuất bản Osprey tr 37</ref><br />1.372 khẩu pháo
| casualties1 = Chết: 340.000 - 400.000 (bao gồm khoảng 150.000 chết trận, số còn lại chết do bệnh tật, giá rét, đói khát)<br />Bị thương: 50.000<br />80.000 đào ngũ<br>100.000 bị bắt<br>'''Sống sót''': 120.000 (không tính những người đào ngũ từ trước), bao gồm 50.000 quân Áo và Phổ, 20.000 quân Ba Lan và 35.000 quân Pháp.<ref>Zamoyski, trg 536</ref>
| casualties2 = '''Chết:''' 150.000 - 210.000<ref name=Bogdanovich>Bogdanovich, "History of Patriotic War 1812", Spt., 1859–1860, Appendix, trg 492–503.</ref><br>150.000 bị thương<br>50.000 đào ngũ}}
{{Chiến tranh Pháp-Nga, 1812}}
{{Chiến tranh Pháp-Nga, 1812}}
{{Chiến tranh Napoleon}}
{{Chiến tranh Napoleon}}
'''Chiến dịch nước Nga''' (hay còn gọi là '''Cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812''', {{lang-ru|Отечественная война 1812 года}}) là bước ngoặt trong cuộc [[các cuộc chiến tranh của Napoléon|chiến tranh Napoléon]]. làm giảm sức mạnh của [[Đế chế thứ nhất|Đế chế Pháp]] và lực lượng đồng minh, gây nên một sự thay đổi lớn trong nền chính trị ở châu Âu vì nó làm suy giảm đáng kể quyền bá chủ của Pháp ở châu Âu. Danh tiếng của Napoléon dường như là một thiên tài quân sự bất khả chiến bại đã bị lung lay. Trong khi các đông minh của Pháp trước đây, đầu tiên là Phổ và sau đó là Áo đã lần lượt phá vỡ liên minh, và chuyển sang chống lại họ gây nên [[chiến tranh Liên minh thứ sáu|cuộc chiến với Liên minh thứ sáu]].<ref>Fierro; Palluel-Guillard; Tulard: ''Histoire et Dictionnaire du Consulat et de l'Empire. Paris: Éditions Robert Laffont'', trang 159-161</ref>
'''Chiến dịch nước Nga''' (hay còn gọi là '''Cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812''', {{lang-ru|Отечественная война 1812 года}}) là bước ngoặt trong [[các cuộc chiến tranh của Napoléon]]. Trong vòng 10 năm trước đó, quân Pháp thắng trận liên tục và xâm chiếm phần lớn châu Âu, nhưng tại Nga thì họ đã chịu thất bại lớn với hơn 550.000 quân thương vong hoặc đào ngũ. Thất bại này làm sụt giảm nghiêm trọng sức mạnh của [[Đế chế thứ nhất|Đế chế Pháp]] và lực lượng đồng minh, gây ra sự thay đổi lớn trong nền chính trị ở châu Âu làm suy giảm đáng kể quyền bá chủ của Pháp ở châu Âu. Danh tiếng của Napoléon là một thiên tài quân sự bất khả chiến bại đã mất đi sau thất bại này. Các đồng minh của Pháp, đầu tiên là [[Phổ]] và sau đó là Áo, đã lần lượt phá vỡ liên minh và chuyển sang chống lại Pháp, gây nên [[chiến tranh Liên minh thứ sáu]].<ref>Fierro; Palluel-Guillard; Tulard: ''Histoire et Dictionnaire du Consulat et de l'Empire. Paris: Éditions Robert Laffont'', trang 159-161</ref>


Chiến dịch bắt đầu ngày 24 tháng 6 năm 1812, khi Napoléon vượt sông [[Sông Neman|Neman]]. Napoléon buộc [[Hoàng đế]] nước Nga là [[Aleksandr I của Nga|Aleksandr I]] ở lại trong [[Hệ thống phong tỏa Lục địa]] của [[Vương quốc Anh]], mục đích chính là để tránh các đe dọa của Nga tới [[Công quốc Warszawa|Ba Lan]]. Napoléon đặt tên cuộc xâm lăng này là '''chiến dịch Ba Lan lần thứ hai''', người Nga tuyên bố phát động một cuộc '''chiến tranh Vệ quốc'''.
Chiến dịch bắt đầu ngày 24 tháng 6 năm 1812, khi Napoléon vượt [[sông Neman]]. Napoléon buộc [[Nga hoàng|Hoàng đế nước Nga]] là [[Aleksandr I của Nga|Aleksandr I]] ở lại trong [[Hệ thống phong tỏa Lục địa]] của [[Vương quốc Anh]], mục đích chính là để tránh các đe dọa của Nga tới [[Công quốc Warszawa|Ba Lan]]. Napoléon đặt tên cuộc xâm lăng này là '''chiến dịch Ba Lan lần thứ hai''', người Nga tuyên bố phát động một cuộc '''chiến tranh Vệ quốc'''.


Hơn nửa triệu tinh binh của đại quân Napoléon hành quân qua phía tây nước Nga, họ giành chiến thắng trong một số cuộc xung đột nhỏ và một trận đánh lớn ở [[Smolensk]] vào 16-18 tháng 8. Tuy nhiên, trên cùng một ngày, cánh phải của quân đội Nga do nguyên soái [[Pyotr Khristianovich Wittgenstein]] đã chặn một nhánh của quân đội Pháp, dẫn đầu bởi [[Thống chế Pháp|Thống chế]] [[Nicolas Oudinot]] trong [[trận Polotsk]]. Điều này ngăn chặn cuộc hành quân của Pháp tới kinh thành [[Sankt-Peterburg]]; số phận của cuộc chiến đã phải quyết định tại [[Moskva]], nơi mà Napoléon đã thân chinh dẫn quân tiến đánh.
Hơn 68 vạn tinh binh của đại quân Napoléon hành quân qua phía tây nước Nga, họ giành chiến thắng trong một số trận đánh nhỏ và một trận đánh lớn ở [[Smolensk]] vào 16-18 tháng 8. Tuy nhiên, trên cùng một ngày, cánh bắc của quân đội Nga do [[Thống chế Nga]] [[Pyotr Khristianovich Wittgenstein|Peter Wittgenstein]] đã chặn cánh bắc của quân đội Pháp, dẫn đầu bởi [[Thống chế Pháp]] [[Nicolas Oudinot]] trong [[trận Polotsk]]. Điều này ngăn chặn cuộc hành quân của Pháp tới kinh thành [[Sankt-Peterburg]]; số phận của cuộc chiến đã phải quyết định tại [[Moskva]], nơi mà Napoléon đã thân chinh dẫn quân tiến đánh.


Cuộc kháng chiến của Quân đội Nga cũng bắt nguồn từ tinh thần yêu nước sục sôi, quyết tâm trả thù những thất bại trước quân Pháp trong các năm [[1805]] - [[1807]], cũng như quyết tâm không chịu ách chư hầu cho Pháp theo [[Hiệp định Tilsit]] (1807).<ref>Alexander Mikaberidze, ''The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov'', trang 1</ref> Chiến thắng rạng rỡ của cuộc chiến đấu bảo vệ nước Nga này chứng tỏ sức mạnh uy dũng của lực lượng Quân đội Nga trong [[các cuộc chiến tranh của Napoléon|những cuộc chiến tranh của Napoléon]].<ref>Gunther Erich Rothenberg, ''The art of warfare in the age of Napoleon'', trang 204</ref> Sự kiện này đã từng được miêu tả trong cuốn tiểu thuyết [[Chiến tranh và hòa bình|Chiến tranh và Hòa bình]] của [[Lev Nikolayevich Tolstoy|Lev Tolstoy]] và thường được người Nga gọi là '''Chiến tranh Vệ quốc 1812''' (phân biệt với "Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại" tức [[Chiến tranh Xô-Đức]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]]).
Cuộc kháng chiến của Quân đội Nga cũng bắt nguồn từ tinh thần yêu nước sục sôi, quyết tâm trả thù những thất bại trước quân Pháp trong các năm [[1805]] - [[1807]], cũng như quyết tâm không chịu ách chư hầu cho Pháp theo [[Hiệp định Tilsit]] (1807).<ref>Alexander Mikaberidze, ''The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov'', trang 1</ref> Chiến thắng rạng rỡ của cuộc chiến đấu bảo vệ nước Nga này chứng tỏ sức mạnh uy dũng của lực lượng Quân đội Nga trong [[các cuộc chiến tranh của Napoléon]].<ref>Gunther Erich Rothenberg, ''The art of warfare in the age of Napoleon'', trang 204</ref> Sự kiện này đã từng được miêu tả trong cuốn tiểu thuyết [[Chiến tranh và hòa bình|Chiến tranh và Hòa bình]] của [[Lev Tolstoy]] và thường được người Nga gọi là '''Chiến tranh Vệ quốc 1812''' (phân biệt với "Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại" tức [[Chiến tranh Xô-Đức]] trong [[Thế chiến thứ hai]]).


== Diễn biến ==
==Chuẩn bị chiến tranh==
Đến cuối năm 1811 thì Napoleon đã có nhiều chỉ thị cực kì nghiêm túc cho một cuộc chiến lớn với nước Nga.
Mở đầu cuộc binh lửa, Quân đội Nga đã gặt hái được những chiến công ban đầu tại Mir, Romanovo, Ostrovno, Saltanovka, và Klyastitsy.<ref>Alexander Mikaberidze, ''The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov'', trang 14</ref> Nhưng vào tháng 8 năm 1812, quân Nga phải rút lui trước sức ép của Pháp và cũng bởi chiến lược của Tư lệnh [[Barclay De Tolly]]. Sau đó Sa hoàng không hài lòng, [[Mikhail Illarionovich Kutuzov|Kutuzov]] được phong hàm Nguyên soái và được cử làm Tổng Chỉ huy Quân đội Nga thay [[Barclay De Tolly]]. Sau đó quân Nga do Kutuzov chỉ huy chống cự lại [[Napoléon Bonaparte|Napoléon I]] ác liệt trong [[Trận Borodino|trận đánh lớn]] tại [[Borodino]] từ khoảng cách 120&nbsp;km (khoảng 75 dặm) về phía tây [[Moskva]] ngày 07-9-1812. Quân đội Nga đã chiến đấu anh dũng và gây cho quân Pháp bị tổn thất nặng nề.<ref>Alexander Mikaberidze, ''The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov'', trang 204</ref> Rất nhiều binh sĩ người [[Westfalen]] chư hầu chiến đấu cho Pháp cũng bị thiệt mạng cuộc giao tranh khốc liệt này.<ref name="rothenberg159">Gunther Erich Rothenberg, ''The art of warfare in the age of Napoleon'', trang 159</ref> Tuy nhiên, Hoàng đế Napoléon I đã chiến thắng và quân Nga triệt binh khỏi trận địa.<ref name="herold354356"/>


Một báo cáo của tướng [[Louis Nicolas Davout|Davout]] gửi Napoleon ngày 29-11-1811 có viết: ''"Trong chiến dịch năm 1805, nhiều binh lính đã bị tụt lại sau do thiếu giày; hiện tại ông ấy đang tích trữ 6 đôi giày cho một người lính”''.
Nhưng trận thư hùng đẫm máu này đã trở thành một chiến thắng về mặt tinh thần của các chiến binh Nga.<ref name="zamoyski1x">Adam Zamoyski, ''Moscow 1812: Napoleon's Fatal March'', trang XX</ref> Mùa đông trên lãnh thổ Nga rất khắc nghiệt. Quân đội Nga càng rút lui, càng khiến cho quân đội Pháp sa lầy vào xứ sở mênh mông còn làng mạc đã bị quân Nga đốt sạch trước khi quân Pháp tiến tới khiến cho người Pháp không thể tìm ra được thực phẩm.


Napoleon ra lệnh cho Bá tước [[Jean-Girard Lacuée|Lacuée de Cessac]] phụ trách hậu cần phải cung cấp lương thực cho 40 vạn quân trong một chiến dịch 50 ngày, yêu cầu 20 triệu khẩu phần bánh mì và gạo, 6000 xe vận tải để chở đủ bột mì cho 20 vạn người trong 2 tháng và 72 triệu lít yến mạch nuôi ngựa trong 50 ngày.
Với nguồn quân nhu trống rỗng và đường tiếp tế bị trải dài quá mức, đại quân của Napoléon I sau chiến thắng trong trận huyết chiến ở Borodino đã tiến quân đến cố đô [[Moskva]] vào ngày [[14 tháng 9]] năm 1812. Các chiến binh Pháp vui mừng trước ngưỡng cửa Moskva hùng vĩ, và Napoléon I coi thời khắc đã đến để buộc người Nga phải ra hàng. Tuy nhiên, không có bóng ai ở đây cả mà chỉ có một Sĩ quan Nga đề nghị đình chiến, để các chiến sĩ Nga có thêm thời gian rút quân ra khỏi cố đô. Đến lúc Mặt Trời lặn cũng chẳng thấy ai, một số Sĩ quan Pháp vào Moskva rồi thì lại chạy ra và bẩm báo với Hoàng đế Napoléon I hung tin là toàn thể dân chúng thành Moskva đã di tản khỏi đây. Màn đêm buông xuống, ông mới tiến đại binh vào cố đô nước Nga.<ref name="herold354356">J. Christopher Herold, ''The Age of Napoleon'', các trang 354-356.</ref>


Ngày [[14 tháng 2]] năm 1812, một lượng quân Pháp rất lớn đã tiến về phía Đông và họ đóng quân tại 20 thành phố Đức tại khắp miền Tây đế chế Napoleon.
[[Sa hoàng]] [[Aleksandr I của Nga|Alekxandr I]] nhất định không chịu thương thuyết. Mong đợi Sa hoàng Alekxandr I [[đầu hàng]] có điều kiện, thay vào đó quân Pháp lại thấy mình đang ở trong một thành phố cằn cỗi và hoàng tàn đã bị quân Nga san phẳng hoàn toàn trước khi rút lui. Thiếu nơi đồn trú mùa đông, Napoléon thấy cần phải rút quân. Bắt đầu vào ngày 19/10 và kéo dài đến tháng 12, quân đội Pháp phải đối mặt với một số trở ngại rất lớn trên đường dài rút quân khỏi Nga: nạn đói, [[thời tiết]] giá lạnh và lực lượng quân đội của Nga đã chặn đường rút lui.


Không chỉ quân Pháp thuần tuý, chiến dịch đánh nước Nga còn có sự đóng góp quân của các nước chư hầu của Pháp. Vào tháng 2 năm 1812, Áo đồng ý góp cho Napoleon 3 vạn quân. Một tuần sau, Phổ huy động cho Pháp 2 vạn quân. Nếu chia theo quân chủng thì 48% bộ binh là người Pháp, 52% là người nước ngoài; 64% kị binh là người Pháp, 36% là người nước ngoài.
Lực lượng Pháp bị thiệt hại nặng nề vì thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu phương tiện y tế, luôn luôn bị quân du kích Nga quấy phá và bị tấn công bởi "[[Đại tướng Mùa Đông]]" (General Winter) là 1 từ dùng để chỉ mùa Đông quá sức khắc nghiệt tại Nga. Đa số quân Pháp đã chết vì đói, vì lạnh, vì bệnh tật, một số lớn bị bắt làm tù binh.


Dân số của Pháp lúc đó là 42,3 triệu người, các quốc gia vệ tinh của Pháp là 40 triệu người, tổng cộng là 82,3 triệu. Napoleon đã huy động tới 69 vạn quân, đây là lần xuất quân chinh phạt lớn nhất lịch sử châu Âu tính tới thời điểm đó. Đại quân Pháp có gần 1.400 khẩu pháo, 20 vạn ngựa phân bổ cho 8 vạn kị binh, 3 vạn lính pháo binh và 25 nghìn cỗ xe đủ kiểu. Có 26 tiểu đoàn vận tải, 18 trong số đó có 600 cỗ xe hạng nặng, mỗi xe 6 ngựa kéo có khả năng chở gần 3.000 kg.
Những trận đánh tại Krasnyi kéo dài suốt từ ngày [[4 tháng 11|4]] cho đến ngày [[5 tháng 11]] năm 1812, làm cho Napoléon bị hao tổn thêm 2 vạn chiến binh nữa. Tiếp theo đó, Quân đội Nga kéo đến [[sông Berezina]] để truy kích quân Pháp, viên chỉ huy quân Nga là [[Pavel Vasilievich Chichagov]] đã chiếm được một kho quân nhu lớn của quân Pháp tại [[Minsk]], phá hủy những chiếc cầu bắc qua sông Berezina tại thị trấn Borisov, và kéo quân bên bờ Tây sông này để ngăn chặn quân địch vượt sông. Từ ngày [[14 tháng 11|14]] cho tới ngày [[17 tháng 11]] năm 1812, trong [[trận Berezina|trận sông Berezina]], quân Nga liên tiếp tấn công, song Napoléon vượt được sông này. Ông phải hứng chịu tổn thất khủng khiếp. Chỉ sự hợp tác ngầm của Kutuzov mà đã gây cho Napoléon thảm họa như thế. Vốn dĩ ông nhận thấy rằng Mùa Đông đã hủy diệt quân lực của Napoléon, do đó ông không cần phải truy kích quân Pháp quá mãnh liệt.<ref name="stone106">David R. Stone, ''A military history of Russia: from Ivan the Terrible to the war in Chechnya'', trang 106</ref>

Binh lính tự mang đi 4 ngày lương thực và thêm 20 ngày trên những cỗ xe quân đội. Nếu trong 3 tuần đầu chiến dịch tiếp tục thì đại quân sẽ phải dừng lại để tái tiếp tế.

Trong khi đó, toàn bộ dân số của nước Nga lúc đó là 46 triệu, họ huy động được 70 vạn lính chủ lực và 223.000 dân quân trong toàn cuộc chiến.

== Diễn biến ==
[[Tập tin:Barclay de Tolly (Dawe).jpg|nhỏ|Chân dung Barclay de Tolly]]
Tổng chỉ huy ban đầu của quân Nga là [[Thống chế Nga|Thống chế]] [[Mikhail Bogdanovich Barklay-de-Tolli|Barclay de Tolly]], vốn là một sĩ quan gốc [[Scotland]]. Barclay de Tolly lớn lên ở [[St.Petersburg]] và trở thành Bộ trưởng Chiến tranh trong triều đình Nga từ năm 1810. Ông đã chuẩn bị hiệu quả cho quân đội Nga cho cuộc chiến quyết định với Napoléon, ra lệnh và đích thân tạo ra rất nhiều hướng dẫn chiến thuật và chiến lược và sách hướng dẫn cho binh lính và sĩ quan. Chính Barclay là người ban đầu đã vạch ra kế hoạch tổng thể cho quân đội Nga trong cuộc chiến này: sử dụng chiến lược rút ​​lui vào miền Trung nước Nga để tiêu hao tài nguyên của quân đội Pháp. Khi rút lui, lính Nga đã phá hủy kho lương thực, đạn dược và bất kỳ tài sản nào đối phương có thể sử dụng được. Barclay đã tính toán đúng các tuyến đường tiếp tế của Pháp sẽ trở nên quá dài để cung cấp cho quân đội từ châu Âu và các lực lượng du kích Nga và quân đội sẽ làm phần còn lại để nghiền nát kẻ thù.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.rbth.com/history/334358-what-actually-caused-russo-french-war-1812|tựa đề=What actually caused the Russo-French War of 1812?|url-status=live}}</ref>
[[Tập tin:Napoleon Neman.jpg|trái|nhỏ|Cuộc vượt biên của quân đội Napoléon qua Neman]]
Ngày [[22 tháng 6]] năm 1812 Napoleon ban hành bản thông cáo của chiến dịch, cũng là mệnh lệnh cho [[Grande Armée|Đại quân]] vượt sông Niemen tiến vào Nga. Quy mô của Đại quân Napoleon sau khi đã trừ đi các lực lượng đồn trú, vệ binh quốc gia và số lính coi kho, pháo đội bảo vệ bờ biển là 45 vạn người ở tuyến đầu, 16,5 vạn người ở tuyến hai. Con số này lớn hơn toàn bộ dân số Paris vào thời điểm đó.

Mở đầu cuộc binh lửa, Quân đội Nga đã gặt hái được những chiến công ban đầu tại Mir, Romanovo, Ostrovno, Saltanovka, và Klyastitsy.<ref>Alexander Mikaberidze, ''The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov'', trang 14</ref> Nhưng vào tháng 8 năm 1812, quân Nga phải rút lui trước sức ép của Pháp và cũng bởi chiến lược của Tư lệnh [[Barclay de Tolly]]. Sau đó Sa hoàng không hài lòng, tướng [[Mikhail Illarionovich Kutuzov|Mikhail Kutuzov]] được phong hàm [[Thống chế Nga|Thống chế]] và được cử làm Tổng Chỉ huy Quân đội Nga thay [[Barclay de Tolly]]. Sau đó quân Nga do Kutuzov chỉ huy chống cự lại [[Napoléon Bonaparte|Napoléon I]] ác liệt trong [[Trận Borodino|trận đánh lớn]] tại [[Borodino]] từ khoảng cách 120&nbsp;km (khoảng 75 dặm) về phía tây [[Moskva]] ngày [[7 tháng 9]] năm 1812. Quân đội Nga đã chiến đấu anh dũng và gây cho quân Pháp bị tổn thất nặng nề.<ref>Alexander Mikaberidze, ''The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov'', trang 204</ref> Rất nhiều binh sĩ người [[Westfalen]] chư hầu chiến đấu cho Pháp cũng bị thiệt mạng cuộc giao tranh khốc liệt này.<ref name="rothenberg159">Gunther Erich Rothenberg, ''The art of warfare in the age of Napoleon'', trang 159</ref> Tuy nhiên, Hoàng đế Napoléon I đã chiến thắng và quân Nga triệt binh khỏi trận địa.<ref name="herold354356"/>

Nhưng trận thư hùng đẫm máu này đã trở thành một chiến thắng về mặt tinh thần của các chiến binh Nga.<ref name="zamoyski1x">Adam Zamoyski, ''Moscow 1812: Napoleon's Fatal March'', trang XX</ref> Mùa đông trên lãnh thổ Nga rất khắc nghiệt. Quân đội Nga càng rút lui, càng khiến cho quân đội Pháp sa lầy vào xứ sở mênh mông còn làng mạc đã bị quân Nga đốt sạch trước khi quân Pháp tiến tới khiến cho người Pháp không thể tìm ra được thực phẩm.

Với nguồn quân nhu trống rỗng và đường tiếp tế bị trải dài quá mức, đại quân của Napoléon I sau chiến thắng trong trận huyết chiến ở Borodino đã tiến quân đến cố đô [[Moskva]] vào ngày [[14 tháng 9]] năm 1812. Các chiến binh Pháp vui mừng trước ngưỡng cửa Moskva hùng vĩ, và Napoléon I coi thời khắc đã đến để buộc người Nga phải ra hàng. Tuy nhiên, không có bóng ai ở đây cả mà chỉ có một sĩ quan Nga đề nghị đình chiến, để các chiến sĩ Nga có thêm thời gian rút quân ra khỏi cố đô. Đến lúc mặt trời lặn mà vẫn chẳng thấy ai, một số sĩ quan Pháp vào thám thính Moskva rồi trở ra bẩm báo với Napoléon I là toàn thể dân chúng thành Moskva đã di tản và Moskva đã bị đốt phá. Màn đêm buông xuống, ông mới tiến đại binh vào cố đô nước Nga.<ref name="herold354356">J. Christopher Herold, ''The Age of Napoleon'', các trang 354-356.</ref>
[[Tập tin:Fire of Moscow 1812.jpg|trái|nhỏ|Hỏa hoạn Moskva 1812]]
[[Sa hoàng]] [[Aleksandr I của Nga|Alekxandr I]] nhất định không chịu thương thuyết. Vốn mong đợi Alekxandr I [[đầu hàng]] có điều kiện, thay vào đó, quân Pháp lại thấy mình đang ở trong một thành phố cằn cỗi và hoàng tàn đã bị quân Nga san phẳng hoàn toàn trước khi rút lui. Thiếu nơi đồn trú mùa đông, Napoléon thấy cần phải rút quân. Bắt đầu vào ngày [[19 tháng 10]] và kéo dài đến tháng 12, quân đội Pháp phải đối mặt với một số trở ngại rất lớn trên đường dài rút quân khỏi Nga: nạn đói, [[thời tiết]] giá lạnh và lực lượng quân đội của Nga đã chặn đường rút lui.
[[Tập tin:Napoleons retreat from moscow.jpg|trái|nhỏ|Napoleon rút lui của khỏi Moskva.]]
Lực lượng Pháp bị thiệt hại nặng nề vì thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu phương tiện y tế, luôn luôn bị quân du kích Nga quấy phá và bị tấn công. Bởi mùa Đông quá sức khắc nghiệt tại Nga, quân Pháp còn lan truyền huyền thoại "[[Đại tướng Mùa Đông]]" (''général Hiver'') đã làm gia tăng những thiệt hại của họ. Đa số quân Pháp đã chết vì đói, vì lạnh, vì bệnh tật, một số lớn bị bắt làm tù binh.

Những trận đánh tại Krasnyi kéo dài suốt từ ngày [[4 tháng 11|4]] cho đến ngày [[5 tháng 11]] năm 1812, làm cho Napoléon bị hao tổn thêm 2 vạn chiến binh nữa. Tiếp theo đó, Quân đội Nga kéo đến [[sông Berezina]] để truy kích quân Pháp, viên chỉ huy quân Nga là [[Pavel Vasilyevich Chichagov|Pavel Chichagov]] đã chiếm được một kho quân nhu lớn của quân Pháp tại [[Minsk]], phá hủy những chiếc cầu bắc qua sông Berezina tại thị trấn Borisov, và kéo quân bên bờ Tây sông này để ngăn chặn quân địch vượt sông. Từ ngày [[14 tháng 11|14]] cho tới ngày [[17 tháng 11]] năm 1812, trong [[trận Berezina|trận sông Berezina]], quân Nga liên tiếp tấn công, song Napoléon vượt được sông này. Ông phải hứng chịu tổn thất khủng khiếp. Chỉ sự hợp tác ngầm của Kutuzov mà đã gây cho Napoléon thảm họa như thế. Vốn dĩ ông nhận thấy rằng Mùa Đông đã hủy diệt quân lực của Napoléon, do đó ông không cần phải truy kích quân Pháp quá mãnh liệt.<ref name="stone106">David R. Stone, ''A military history of Russia: from Ivan the Terrible to the war in Chechnya'', trang 106</ref>
[[Tập tin:Crossing the Berezina River, by Peter von Hess.jpg|nhỏ|[[Người Kalmyk|Người Kalmyks]] và [[Người Bashkir|người Bashkirs]] tấn công quân đội Pháp tại Berezina]]


== Kết quả ==
== Kết quả ==
Cuộc xâm lược nước Nga của Napoléon là một trong những sự kiện trọng đại trong [[lịch sử châu Âu]], là chiến bại thê thảm của ông,<ref name="stone106"/> và dẫn đến bi kịch của ông. Với chiến thắng này, nhân dân Nga bắt đầu ấp ủ lòng tự hào dân tộc. Đây là chiến thắng nhờ lòng dũng cảm của dân tộc Nga, nhờ Hoàng đế Aleksandr I đã tập hợp được lực lượng quý tộc và [[nông dân]] đấu tranh bảo vệ đất nước.<ref>Adam Zamoyski, ''Moscow 1812: Napoleon's Fatal March'', các trang X-XVII.</ref> Đây là bước ngoặt lớn trong các cuộc chiến của Napoléon vì chiến dịch này đã giảm quân số của Pháp và các lực lượng đồng minh xuống chỉ còn một phần nhỏ so với ban đầu.<ref>{{Chú thích web |url=http://uts.cc.utexas.edu/~jrubarth/gslis/lis385t.16/Napoleon/ |ngày truy cập=2008-02-07 |tựa đề=Napoleon's Invasion of Russia, 1812 |archive-date=2008-02-05 |archive-url=https://web.archive.org/web/20080205135413/http://uts.cc.utexas.edu/~jrubarth/gslis/lis385t.16/Napoleon/ |url-status=dead }}</ref>. Mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đã góp phần làm thiệt mạng hàng loạt quân Pháp, [[Napoléon Bonaparte|Napoléon]] buộc phải rút quân về nước. Nhiều đạo quân Nga vẫn tiếp tục truy quét quân địch vào [[Đại công quốc Warsawa]] và [[Vương quốc Phổ]].<ref name="stone106"/>
[[Tập tin:French retreat in 1812 by Pryanishnikov.jpg|nhỏ|300px|Quân Pháp bị bắt trong chiến dịch nước Nga]]
Cuộc xâm lược nước Nga của Napoléon là một trong những sự kiện trọng đại trong [[lịch sử châu Âu]], là chiến bại thê thảm của ông,<ref name="stone106"/> và dẫn đến bi kịch của ông. Với chiến thắng này, nhân dân Nga bắt đầu ấp ủ lòng tự hào dân tộc. Đây là chiến thắng nhờ lòng dũng cảm của dân tộc Nga, nhờ Hoàng đế Aleksandr I đã tập hợp được lực lượng quý tộc và [[nông dân]] đấu tranh bảo vệ đất nước.<ref>Adam Zamoyski, ''Moscow 1812: Napoleon's Fatal March'', các trang X-XVII.</ref> Đây là bước ngoặt lớn trong các cuộc chiến của Napoléon vì chiến dịch này đã giảm quân số của Pháp và các lực lượng đồng minh xuống chỉ còn một phần nhỏ so với ban đầu.<ref>[http://uts.cc.utexas.edu/~jrubarth/gslis/lis385t.16/Napoleon/ Napoleon's Invasion of Russia, 1812]</ref>. Mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đã góp phần làm thiệt mạng hàng loạt quân Pháp, [[Napoléon Bonaparte|Napoléon]] buộc phải rút quân về nước. Nhiều đạo quân Nga vẫn tiếp tục truy quét quân địch vào [[Đại Công quốc Warsawa]] và [[Phổ (quốc gia)|Phổ]].<ref name="stone106"/> Tuy vị Hoàng đế nước Pháp đã tái xây dựng lực lượng Quân đội trong đó có nhiều chiến sĩ luôn trung kiên với đất nước, ''Đội quân vĩ đại'' của ông không bao giờ hồi phục được.<ref name="rothenberg159"/> Chẳng bao lâu sau, các quốc gia châu Âu đều đồng loạt nổi lên chống Pháp và [[Đế chế thứ nhất|Đệ nhất Đế chế]] của Napoléon sụp đổ. Do đó, chiến thắng lẫy lừng của cuộc Chiến tranh Vệ quốc Nga được coi là một sự kiện trọng đại dẫn đến sự giải phóng cả châu Âu thoát khỏi ách chiếm đóng của Hoàng đế Napoléon I.<ref>Adam Zamoyski, ''Moscow 1812: Napoleon's Fatal March'', trang 146</ref>


Tuy vị Hoàng đế nước Pháp đã tái xây dựng lực lượng Quân đội trong đó có nhiều chiến sĩ luôn trung kiên với đất nước, ''Đội quân vĩ đại'' (Grande Armée) của ông không bao giờ hồi phục được.<ref name="rothenberg159"/> Chẳng bao lâu sau, các quốc gia châu Âu đều đồng loạt nổi lên chống Pháp và [[Đệ Nhất Đế chế Pháp|Đệ nhất Đế chế]] của Napoléon sụp đổ. Do đó, chiến thắng lẫy lừng của cuộc Chiến tranh Vệ quốc Nga được coi là một sự kiện trọng đại dẫn đến sự giải phóng cả châu Âu thoát khỏi ách chiếm đóng của Napoléon I.<ref>Adam Zamoyski, ''Moscow 1812: Napoleon's Fatal March'', trang 146</ref>
Cuộc Chiến tranh Vệ quốc khốc liệt này đã lôi cuốn biết bao thế hệ [[lịch sử|sử học]] nước Nga.<ref name="zamoyski1x"/>

Cuộc Chiến tranh Vệ quốc khốc liệt này đã lôi cuốn biết bao thế hệ các nhà [[lịch sử|sử học]] nước Nga.<ref name="zamoyski1x"/>


== Chú thích ==
== Chú thích ==
{{Tham khảo}}
{{Tham khảo}}


== Thài liệu tham khảo ==
== Tài liệu tham khảo ==
{{thể loại Commons|Patriotic War 1812}}
{{thể loại Commons|Patriotic War 1812}}
;Sách
;Sách
{{refbegin}}
{{refbegin}}
* {{chú thích sách|title=1812: Napoleon's Invasion of Russia |last=Britten Austin |first=Paul |authorlink=Paul Britten Austin |coauthors= |year=2000 |publisher= Greenhill Books |Location= |isbn=185367415X}} (Originally published in three volumes: The March on Moscow, Napoleon in Moscow, The Great Retreat.)
* {{chú thích sách|title=1812: Napoleon's Invasion of Russia |url=https://archive.org/details/1812napoleonsinv0000aust |last=Britten Austin |first=Paul |authorlink=Paul Britten Austin |year=2000 |publisher= Greenhill Books |Location= |isbn=185367415X}} (Originally published in three volumes: The March on Moscow, Napoleon in Moscow, The Great Retreat.)
* {{chú thích sách|title=History of Patriotic War 1812 |last=Bogdanovich |first=Michael |authorlink= |coauthors= |year=1863 |publisher= |location=St. Petersburg |oclc=25319830 |pages=1859–1860 }}
* {{chú thích sách|title=History of Patriotic War 1812 |last=Bogdanovich |first=Michael |authorlink= |year=1863 |publisher= |location=St. Petersburg |oclc=25319830 |pages=1859–1860 }}
* Gunther Erich Rothenberg, [http://books.google.com.vn/books?id=jxqdnKQrAmEC&pg=PA207&dqborodino#v=onepage&q&f=false ''The art of warfare in the age of Napoleon''], Đại học Indiana Press, 1980. ISBN 0-253-20260-4.
* Gunther Erich Rothenberg, [http://books.google.com.vn/books?id=jxqdnKQrAmEC&pg=PA207&dqborodino#v=onepage&q&f=false ''The art of warfare in the age of Napoleon''], Đại học Indiana Press, 1980. ISBN 0-253-20260-4.
* {{chú thích sách|title=Blundering to Glory: Napoleon's Military Campaigns |last=Connelly |first=Owen |authorlink= |coauthors= |year=1999 |edition=2nd |publisher=SR Books |location=Wilmington, Delaware |isbn=0842027807 |pages= }}
* {{chú thích sách|title=Blundering to Glory: Napoleon's Military Campaigns |last=Connelly |first=Owen |authorlink= |year=1999 |edition=2nd |publisher=SR Books |location=Wilmington, Delaware |isbn=0842027807 |pages= }}
* {{chú thích sách|title=Napoleon as Military Commander |last=Marshall-Cornwall |first=James |authorlink= |coauthors= |year=1967 |publisher=Batsford |location=London |isbn= |pages= }}
* {{chú thích sách|title=Napoleon as Military Commander |last=Marshall-Cornwall |first=James |authorlink= |year=1967 |publisher=Batsford |location=London |isbn= |pages= }}
* {{chú thích sách|title=Napoleon's Invasion of Russia |last=Nafziger |first=George |authorlink= |coauthors= |year=1984 |publisher= Hippocrene Books|location= New York, N.Y.|isbn=0882546813 |pages= }}
* {{chú thích sách|title=Napoleon's Invasion of Russia |last=Nafziger |first=George |authorlink= |year=1984 |publisher= Hippocrene Books|location= New York, N.Y.|isbn=0882546813 |pages= }}
* {{chú thích sách|title=1812 Napoleon's Russian Campaign |last=Riehn |first=Richard K. |authorlink= |coauthors= |year=1991 |publisher=Wiley |location=New York |isbn=0471543020 |pages= }}
* {{chú thích sách|title=1812 Napoleon's Russian Campaign |url=https://archive.org/details/1812napoleonsrus0000rieh |last=Riehn |first=Richard K. |authorlink= |year=1991 |publisher=Wiley |location=New York |isbn=0471543020 |pages= }}
* {{chú thích sách|title=[[Moscow 1812: Napoleon's Fatal March]] |last=Zamoyski |first=Adam |authorlink= |coauthors= |year=2004 |publisher=HarperCollins |location=London |isbn=0007123752 |pages= }}
* {{chú thích sách|title=[[Moscow 1812: Napoleon's Fatal March]] |last=Zamoyski |first=Adam |authorlink= |year=2004 |publisher=HarperCollins |location=London |isbn=0007123752 |pages= }}
* {{chú thích sách|title=Russia Against Napoleon: The Battle for Europe, 1807 to 1814 |last=Lieven | first=Dominic |authorlink=Dominic Lieven |year=2009 |publisher=Allen Lane/The Penguin Press |location= |isbn= |pages=617}}[http://www.literaryreview.co.uk/esdaile_10_09.html]
* {{chú thích sách|title=Russia Against Napoleon: The Battle for Europe, 1807 to 1814 |last=Lieven | first=Dominic |authorlink=Dominic Lieven |year=2009 |publisher=Allen Lane/The Penguin Press |location= |isbn= |pages=617}}[http://www.literaryreview.co.uk/esdaile_10_09.html] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20130605171204/http://www.literaryreview.co.uk/esdaile_10_09.html |date = ngày 5 tháng 6 năm 2013}}
* {{chú thích sách|title=Histoire et Dictionnaire du Consulat et de l'Empire |last=Fierro|first=Alfred|authorlink= |coauthors=Palluel-Guillard, André; [[Jean Tulard|Tulard, Jean]]|year=1995 |publisher=Éditions Robert Laffont |location=Paris |isbn=2-221-05858-5 |pages=1350}}
* {{chú thích sách|title=Histoire et Dictionnaire du Consulat et de l'Empire |last=Fierro|first=Alfred|authorlink= |others=Palluel-Guillard, André; [[Jean Tulard|Tulard, Jean]]|year=1995 |publisher=Éditions Robert Laffont |location=Paris |isbn=2-221-05858-5 |pages=1350}}
{{refend}}
{{refend}}


;Các tạp chí
;Các tạp chí
* {{chú thích tạp chí|last=Anthony |first=James Joes |authorlink= |coauthors= |year=1996 |month= |title=Continuity and Change in Guerrilla War: The Spanish and Afghan Cases |journal=Journal of Conflict Sudies |volume=16 |issue=2 |pages= |id= |url=http://journals.hil.unb.ca/index.php/JCS/article/view/4482/5262 |accessdate= |quote= }}
* {{chú thích tạp chí |last=Anthony |first=James Joes |authorlink= |year=1996 |title=Continuity and Change in Guerrilla War: The Spanish and Afghan Cases |journal=Journal of Conflict Sudies |volume=16 |issue=2 |pages= |id= |url=http://journals.hil.unb.ca/index.php/JCS/article/view/4482/5262 |access-date= |quote= |archive-date=2013-06-20 |archive-url=https://web.archive.org/web/20130620013243/http://journals.hil.unb.ca/index.php/JCS/article/view/4482/5262 }}
* Nafziger, George. "Rear services and foraging in the 1812 campaign: Reasons of Napoleon's defeat" [http://genstab.ru/nap_sup_1812.htm (Russian translation online)]
* Nafziger, George. "Rear services and foraging in the 1812 campaign: Reasons of Napoleon's defeat" [http://genstab.ru/nap_sup_1812.htm (Russian translation online)] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20170825060055/http://genstab.ru/nap_sup_1812.htm |date = ngày 25 tháng 8 năm 2017}}
* [http://www-cgsc.army.mil/carl/resources/csi/Chew/CHEW.asp Fighting the Russians in Winter: Three Case Studies]. US Army Command and General Staff College.
* [http://www-cgsc.army.mil/carl/resources/csi/Chew/CHEW.asp Fighting the Russians in Winter: Three Case Studies] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20060613235213/http://www-cgsc.army.mil/carl/resources/csi/Chew/CHEW.asp |date = ngày 13 tháng 6 năm 2006}}. US Army Command and General Staff College.


== Đọc thêm ==
== Đọc thêm ==
Dòng 87: Dòng 160:
* {{chú thích sách|author=David G. Chandler|authorlink=David G. Chandler|title=The Campaigns of Napoleon|publisher=Folio|year=2002|isbn=0-29-774830-0}}
* {{chú thích sách|author=David G. Chandler|authorlink=David G. Chandler|title=The Campaigns of Napoleon|publisher=Folio|year=2002|isbn=0-29-774830-0}}
* {{chú thích sách|author=Denis Davidov|authorlink=Denis Davydov|title=In Service of the Tsar Against Napoleon, 1806–1814|publisher=Greenhill Books|year=1999|isbn=1-85367-373-0}}
* {{chú thích sách|author=Denis Davidov|authorlink=Denis Davydov|title=In Service of the Tsar Against Napoleon, 1806–1814|publisher=Greenhill Books|year=1999|isbn=1-85367-373-0}}
* {{chú thích sách|author=Edward Ryan|title=Napoleon's Elite Cavalry|publisher=Greenhill Books|year=1999|isbn=1-85367-371-4}}
* {{chú thích sách|author=Edward Ryan|title=Napoleon's Elite Cavalry|url=https://archive.org/details/napoleonseliteca0000ryan|publisher=Greenhill Books|year=1999|isbn=1-85367-371-4}}
* {{chú thích sách|author=[[Heinrich von Brandt]]|title=In the Legions of Napoleon; The Memoirs of a Polish Officer in Spain and Russia, 1808–1813 |publisher=Greenhill Books|year=1999|isbn=1-85367-380-3}}
* {{chú thích sách|author=[[Heinrich von Brandt]]|title=In the Legions of Napoleon; The Memoirs of a Polish Officer in Spain and Russia, 1808–1813 |url=https://archive.org/details/inlegionsofnapol0000bran|publisher=Greenhill Books|year=1999|isbn=1-85367-380-3}}


=== Tiểu thuyết ===
=== Tiểu thuyết ===
Dòng 104: Dòng 177:
* [http://robslink.com/SAS/democd15/zoom.htm Alternative version of Minard's map (using modern country boundaries)]
* [http://robslink.com/SAS/democd15/zoom.htm Alternative version of Minard's map (using modern country boundaries)]
* [http://robslink.com/SAS/democd15/minard.htm Alternative version of Minard's map (zoomed-out, to show area in relationship to the rest of Europe)]
* [http://robslink.com/SAS/democd15/minard.htm Alternative version of Minard's map (zoomed-out, to show area in relationship to the rest of Europe)]
* [http://steadfast.tin.soldier.hotbox.ru/s2/1en.html French invasion of 1812, view from Russia]
* [http://steadfast.tin.soldier.hotbox.ru/s2/1en.html French invasion of 1812, view from Russia] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20110828005311/http://steadfast.tin.soldier.hotbox.ru/s2/1en.html |date=2011-08-28 }}
{{Xung đột Nga}}

[[Thể loại:Chiến tranh Ái quốc Nga| ]]
[[Thể loại:Chiến tranh Ái quốc Nga| ]]
[[Thể loại:Chiến tranh Napoléon]]
[[Thể loại:Chiến tranh Napoléon]]
[[Thể loại:Xung đột thế kỷ 19]]
[[Thể loại:Xung đột thế kỷ 19]]
[[Thể loại:Pháp 1812]]
[[Thể loại:Pháp năm 1812]]
[[Thể loại:Xung đột năm 1812]]
[[Thể loại:Xung đột năm 1812]]
[[Thể loại:Chiến tranh liên quan tới Pháp]]
[[Thể loại:Chiến tranh liên quan tới Pháp]]

Phiên bản lúc 18:35, ngày 22 tháng 5 năm 2024

Chiến tranh Pháp-Nga
(Chiến tranh Vệ quốc 1812)
Một phần của Chiến tranh Napoléon
century
Theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái: Trận Borodino ( L.-F. Lejeune ); "Napoléon nhìn cuộc hỏa hoạn Mátxcơva" ( A. Adam ); "Michel Ney trong trận Kovno" ( O. Raffe ); "Pháp rút quân khỏi Nga" ( I. M. Pryanishnikov ).
Thời gian24 tháng 614 tháng 12 năm 1812
Địa điểm
Kết quả Chiến thắng quyết định của Nga,[1]
Đội quân liên minh của Pháp bị tiêu diệt gần hết do chiến đấu, do bệnh tật, hoặc do đói và lạnh
Bắt đầu Chiến tranh với Liên minh thứ sáu
Tham chiến

Đế chế Pháp

Đế quốc Áo (1804–1867) Áo
Vương quốc Phổ Phổ
 Nga
Chỉ huy và lãnh đạo
Lực lượng
Khoảng 690.000[2]
180.000 - 200.000 ngựa
1.393 khẩu pháo
Ban đầu: 488.000
Tổng động viên: 700.000 quân chính quy[3]
223.361 dân quân (Opelchenie)[4]
1.372 khẩu pháo
Thương vong và tổn thất
Chết: 340.000 - 400.000 (bao gồm khoảng 150.000 chết trận, số còn lại chết do bệnh tật, giá rét, đói khát)
Bị thương: 50.000
80.000 đào ngũ
100.000 bị bắt
Sống sót: 120.000 (không tính những người đào ngũ từ trước), bao gồm 50.000 quân Áo và Phổ, 20.000 quân Ba Lan và 35.000 quân Pháp.[5]
Chết: 150.000 - 210.000[6]
150.000 bị thương
50.000 đào ngũ

Chiến dịch nước Nga (hay còn gọi là Cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812, tiếng Nga: Отечественная война 1812 года) là bước ngoặt trong các cuộc chiến tranh của Napoléon. Trong vòng 10 năm trước đó, quân Pháp thắng trận liên tục và xâm chiếm phần lớn châu Âu, nhưng tại Nga thì họ đã chịu thất bại lớn với hơn 550.000 quân thương vong hoặc đào ngũ. Thất bại này làm sụt giảm nghiêm trọng sức mạnh của Đế chế Pháp và lực lượng đồng minh, gây ra sự thay đổi lớn trong nền chính trị ở châu Âu và làm suy giảm đáng kể quyền bá chủ của Pháp ở châu Âu. Danh tiếng của Napoléon là một thiên tài quân sự bất khả chiến bại đã mất đi sau thất bại này. Các đồng minh của Pháp, đầu tiên là Phổ và sau đó là Áo, đã lần lượt phá vỡ liên minh và chuyển sang chống lại Pháp, gây nên chiến tranh Liên minh thứ sáu.[7]

Chiến dịch bắt đầu ngày 24 tháng 6 năm 1812, khi Napoléon vượt sông Neman. Napoléon buộc Hoàng đế nước NgaAleksandr I ở lại trong Hệ thống phong tỏa Lục địa của Vương quốc Anh, mục đích chính là để tránh các đe dọa của Nga tới Ba Lan. Napoléon đặt tên cuộc xâm lăng này là chiến dịch Ba Lan lần thứ hai, người Nga tuyên bố phát động một cuộc chiến tranh Vệ quốc.

Hơn 68 vạn tinh binh của đại quân Napoléon hành quân qua phía tây nước Nga, họ giành chiến thắng trong một số trận đánh nhỏ và một trận đánh lớn ở Smolensk vào 16-18 tháng 8. Tuy nhiên, trên cùng một ngày, cánh bắc của quân đội Nga do Thống chế Nga Peter Wittgenstein đã chặn cánh bắc của quân đội Pháp, dẫn đầu bởi Thống chế Pháp Nicolas Oudinot trong trận Polotsk. Điều này ngăn chặn cuộc hành quân của Pháp tới kinh thành Sankt-Peterburg; số phận của cuộc chiến đã phải quyết định tại Moskva, nơi mà Napoléon đã thân chinh dẫn quân tiến đánh.

Cuộc kháng chiến của Quân đội Nga cũng bắt nguồn từ tinh thần yêu nước sục sôi, quyết tâm trả thù những thất bại trước quân Pháp trong các năm 1805 - 1807, cũng như quyết tâm không chịu ách chư hầu cho Pháp theo Hiệp định Tilsit (1807).[8] Chiến thắng rạng rỡ của cuộc chiến đấu bảo vệ nước Nga này chứng tỏ sức mạnh uy dũng của lực lượng Quân đội Nga trong các cuộc chiến tranh của Napoléon.[9] Sự kiện này đã từng được miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Chiến tranh và Hòa bình của Lev Tolstoy và thường được người Nga gọi là Chiến tranh Vệ quốc 1812 (phân biệt với "Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại" tức Chiến tranh Xô-Đức trong Thế chiến thứ hai).

Chuẩn bị chiến tranh

Đến cuối năm 1811 thì Napoleon đã có nhiều chỉ thị cực kì nghiêm túc cho một cuộc chiến lớn với nước Nga.

Một báo cáo của tướng Davout gửi Napoleon ngày 29-11-1811 có viết: "Trong chiến dịch năm 1805, nhiều binh lính đã bị tụt lại sau do thiếu giày; hiện tại ông ấy đang tích trữ 6 đôi giày cho một người lính”.

Napoleon ra lệnh cho Bá tước Lacuée de Cessac phụ trách hậu cần phải cung cấp lương thực cho 40 vạn quân trong một chiến dịch 50 ngày, yêu cầu 20 triệu khẩu phần bánh mì và gạo, 6000 xe vận tải để chở đủ bột mì cho 20 vạn người trong 2 tháng và 72 triệu lít yến mạch nuôi ngựa trong 50 ngày.

Ngày 14 tháng 2 năm 1812, một lượng quân Pháp rất lớn đã tiến về phía Đông và họ đóng quân tại 20 thành phố Đức tại khắp miền Tây đế chế Napoleon.

Không chỉ quân Pháp thuần tuý, chiến dịch đánh nước Nga còn có sự đóng góp quân của các nước chư hầu của Pháp. Vào tháng 2 năm 1812, Áo đồng ý góp cho Napoleon 3 vạn quân. Một tuần sau, Phổ huy động cho Pháp 2 vạn quân. Nếu chia theo quân chủng thì 48% bộ binh là người Pháp, 52% là người nước ngoài; 64% kị binh là người Pháp, 36% là người nước ngoài.

Dân số của Pháp lúc đó là 42,3 triệu người, các quốc gia vệ tinh của Pháp là 40 triệu người, tổng cộng là 82,3 triệu. Napoleon đã huy động tới 69 vạn quân, đây là lần xuất quân chinh phạt lớn nhất lịch sử châu Âu tính tới thời điểm đó. Đại quân Pháp có gần 1.400 khẩu pháo, 20 vạn ngựa phân bổ cho 8 vạn kị binh, 3 vạn lính pháo binh và 25 nghìn cỗ xe đủ kiểu. Có 26 tiểu đoàn vận tải, 18 trong số đó có 600 cỗ xe hạng nặng, mỗi xe 6 ngựa kéo có khả năng chở gần 3.000 kg.

Binh lính tự mang đi 4 ngày lương thực và thêm 20 ngày trên những cỗ xe quân đội. Nếu trong 3 tuần đầu chiến dịch tiếp tục thì đại quân sẽ phải dừng lại để tái tiếp tế.

Trong khi đó, toàn bộ dân số của nước Nga lúc đó là 46 triệu, họ huy động được 70 vạn lính chủ lực và 223.000 dân quân trong toàn cuộc chiến.

Diễn biến

Chân dung Barclay de Tolly

Tổng chỉ huy ban đầu của quân Nga là Thống chế Barclay de Tolly, vốn là một sĩ quan gốc Scotland. Barclay de Tolly lớn lên ở St.Petersburg và trở thành Bộ trưởng Chiến tranh trong triều đình Nga từ năm 1810. Ông đã chuẩn bị hiệu quả cho quân đội Nga cho cuộc chiến quyết định với Napoléon, ra lệnh và đích thân tạo ra rất nhiều hướng dẫn chiến thuật và chiến lược và sách hướng dẫn cho binh lính và sĩ quan. Chính Barclay là người ban đầu đã vạch ra kế hoạch tổng thể cho quân đội Nga trong cuộc chiến này: sử dụng chiến lược rút ​​lui vào miền Trung nước Nga để tiêu hao tài nguyên của quân đội Pháp. Khi rút lui, lính Nga đã phá hủy kho lương thực, đạn dược và bất kỳ tài sản nào đối phương có thể sử dụng được. Barclay đã tính toán đúng các tuyến đường tiếp tế của Pháp sẽ trở nên quá dài để cung cấp cho quân đội từ châu Âu và các lực lượng du kích Nga và quân đội sẽ làm phần còn lại để nghiền nát kẻ thù.[10]

Cuộc vượt biên của quân đội Napoléon qua Neman

Ngày 22 tháng 6 năm 1812 Napoleon ban hành bản thông cáo của chiến dịch, cũng là mệnh lệnh cho Đại quân vượt sông Niemen tiến vào Nga. Quy mô của Đại quân Napoleon sau khi đã trừ đi các lực lượng đồn trú, vệ binh quốc gia và số lính coi kho, pháo đội bảo vệ bờ biển là 45 vạn người ở tuyến đầu, 16,5 vạn người ở tuyến hai. Con số này lớn hơn toàn bộ dân số Paris vào thời điểm đó.

Mở đầu cuộc binh lửa, Quân đội Nga đã gặt hái được những chiến công ban đầu tại Mir, Romanovo, Ostrovno, Saltanovka, và Klyastitsy.[11] Nhưng vào tháng 8 năm 1812, quân Nga phải rút lui trước sức ép của Pháp và cũng bởi chiến lược của Tư lệnh Barclay de Tolly. Sau đó Sa hoàng không hài lòng, tướng Mikhail Kutuzov được phong hàm Thống chế và được cử làm Tổng Chỉ huy Quân đội Nga thay Barclay de Tolly. Sau đó quân Nga do Kutuzov chỉ huy chống cự lại Napoléon I ác liệt trong trận đánh lớn tại Borodino từ khoảng cách 120 km (khoảng 75 dặm) về phía tây Moskva ngày 7 tháng 9 năm 1812. Quân đội Nga đã chiến đấu anh dũng và gây cho quân Pháp bị tổn thất nặng nề.[12] Rất nhiều binh sĩ người Westfalen chư hầu chiến đấu cho Pháp cũng bị thiệt mạng cuộc giao tranh khốc liệt này.[13] Tuy nhiên, Hoàng đế Napoléon I đã chiến thắng và quân Nga triệt binh khỏi trận địa.[14]

Nhưng trận thư hùng đẫm máu này đã trở thành một chiến thắng về mặt tinh thần của các chiến binh Nga.[15] Mùa đông trên lãnh thổ Nga rất khắc nghiệt. Quân đội Nga càng rút lui, càng khiến cho quân đội Pháp sa lầy vào xứ sở mênh mông còn làng mạc đã bị quân Nga đốt sạch trước khi quân Pháp tiến tới khiến cho người Pháp không thể tìm ra được thực phẩm.

Với nguồn quân nhu trống rỗng và đường tiếp tế bị trải dài quá mức, đại quân của Napoléon I sau chiến thắng trong trận huyết chiến ở Borodino đã tiến quân đến cố đô Moskva vào ngày 14 tháng 9 năm 1812. Các chiến binh Pháp vui mừng trước ngưỡng cửa Moskva hùng vĩ, và Napoléon I coi thời khắc đã đến để buộc người Nga phải ra hàng. Tuy nhiên, không có bóng ai ở đây cả mà chỉ có một sĩ quan Nga đề nghị đình chiến, để các chiến sĩ Nga có thêm thời gian rút quân ra khỏi cố đô. Đến lúc mặt trời lặn mà vẫn chẳng thấy ai, một số sĩ quan Pháp vào thám thính Moskva rồi trở ra bẩm báo với Napoléon I là toàn thể dân chúng thành Moskva đã di tản và Moskva đã bị đốt phá. Màn đêm buông xuống, ông mới tiến đại binh vào cố đô nước Nga.[14]

Hỏa hoạn Moskva 1812

Sa hoàng Alekxandr I nhất định không chịu thương thuyết. Vốn mong đợi Alekxandr I đầu hàng có điều kiện, thay vào đó, quân Pháp lại thấy mình đang ở trong một thành phố cằn cỗi và hoàng tàn đã bị quân Nga san phẳng hoàn toàn trước khi rút lui. Thiếu nơi đồn trú mùa đông, Napoléon thấy cần phải rút quân. Bắt đầu vào ngày 19 tháng 10 và kéo dài đến tháng 12, quân đội Pháp phải đối mặt với một số trở ngại rất lớn trên đường dài rút quân khỏi Nga: nạn đói, thời tiết giá lạnh và lực lượng quân đội của Nga đã chặn đường rút lui.

Napoleon rút lui của khỏi Moskva.

Lực lượng Pháp bị thiệt hại nặng nề vì thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu phương tiện y tế, luôn luôn bị quân du kích Nga quấy phá và bị tấn công. Bởi mùa Đông quá sức khắc nghiệt tại Nga, quân Pháp còn lan truyền huyền thoại "Đại tướng Mùa Đông" (général Hiver) đã làm gia tăng những thiệt hại của họ. Đa số quân Pháp đã chết vì đói, vì lạnh, vì bệnh tật, một số lớn bị bắt làm tù binh.

Những trận đánh tại Krasnyi kéo dài suốt từ ngày 4 cho đến ngày 5 tháng 11 năm 1812, làm cho Napoléon bị hao tổn thêm 2 vạn chiến binh nữa. Tiếp theo đó, Quân đội Nga kéo đến sông Berezina để truy kích quân Pháp, viên chỉ huy quân Nga là Pavel Chichagov đã chiếm được một kho quân nhu lớn của quân Pháp tại Minsk, phá hủy những chiếc cầu bắc qua sông Berezina tại thị trấn Borisov, và kéo quân bên bờ Tây sông này để ngăn chặn quân địch vượt sông. Từ ngày 14 cho tới ngày 17 tháng 11 năm 1812, trong trận sông Berezina, quân Nga liên tiếp tấn công, song Napoléon vượt được sông này. Ông phải hứng chịu tổn thất khủng khiếp. Chỉ sự hợp tác ngầm của Kutuzov mà đã gây cho Napoléon thảm họa như thế. Vốn dĩ ông nhận thấy rằng Mùa Đông đã hủy diệt quân lực của Napoléon, do đó ông không cần phải truy kích quân Pháp quá mãnh liệt.[16]

Người Kalmyksngười Bashkirs tấn công quân đội Pháp tại Berezina

Kết quả

Cuộc xâm lược nước Nga của Napoléon là một trong những sự kiện trọng đại trong lịch sử châu Âu, là chiến bại thê thảm của ông,[16] và dẫn đến bi kịch của ông. Với chiến thắng này, nhân dân Nga bắt đầu ấp ủ lòng tự hào dân tộc. Đây là chiến thắng nhờ lòng dũng cảm của dân tộc Nga, nhờ Hoàng đế Aleksandr I đã tập hợp được lực lượng quý tộc và nông dân đấu tranh bảo vệ đất nước.[17] Đây là bước ngoặt lớn trong các cuộc chiến của Napoléon vì chiến dịch này đã giảm quân số của Pháp và các lực lượng đồng minh xuống chỉ còn một phần nhỏ so với ban đầu.[18]. Mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đã góp phần làm thiệt mạng hàng loạt quân Pháp, Napoléon buộc phải rút quân về nước. Nhiều đạo quân Nga vẫn tiếp tục truy quét quân địch vào Đại công quốc WarsawaVương quốc Phổ.[16]

Tuy vị Hoàng đế nước Pháp đã tái xây dựng lực lượng Quân đội trong đó có nhiều chiến sĩ luôn trung kiên với đất nước, Đội quân vĩ đại (Grande Armée) của ông không bao giờ hồi phục được.[13] Chẳng bao lâu sau, các quốc gia châu Âu đều đồng loạt nổi lên chống Pháp và Đệ nhất Đế chế của Napoléon sụp đổ. Do đó, chiến thắng lẫy lừng của cuộc Chiến tranh Vệ quốc Nga được coi là một sự kiện trọng đại dẫn đến sự giải phóng cả châu Âu thoát khỏi ách chiếm đóng của Napoléon I.[19]

Cuộc Chiến tranh Vệ quốc khốc liệt này đã lôi cuốn biết bao thế hệ các nhà sử học nước Nga.[15]

Chú thích

  1. ^ von Clausewitz, Carl (1996). The Russian campaign of 1812. Transaction Publishers. Introduction by Gérard Chaliand, VII. ISBN 1-4128-0599-6
  2. ^ The Logistics of War, DIANE Publishing, trg 180
  3. ^ Osprey - Men At Arms 028 - The Russian Army Of The Napoleonic Wars tr 20
  4. ^ Russian Army of the Napoleonic Wars 1-Infantry Nhà xuất bản Osprey tr 37
  5. ^ Zamoyski, trg 536
  6. ^ Bogdanovich, "History of Patriotic War 1812", Spt., 1859–1860, Appendix, trg 492–503.
  7. ^ Fierro; Palluel-Guillard; Tulard: Histoire et Dictionnaire du Consulat et de l'Empire. Paris: Éditions Robert Laffont, trang 159-161
  8. ^ Alexander Mikaberidze, The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov, trang 1
  9. ^ Gunther Erich Rothenberg, The art of warfare in the age of Napoleon, trang 204
  10. ^ “What actually caused the Russo-French War of 1812?”.
  11. ^ Alexander Mikaberidze, The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov, trang 14
  12. ^ Alexander Mikaberidze, The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov, trang 204
  13. ^ a b Gunther Erich Rothenberg, The art of warfare in the age of Napoleon, trang 159
  14. ^ a b J. Christopher Herold, The Age of Napoleon, các trang 354-356.
  15. ^ a b Adam Zamoyski, Moscow 1812: Napoleon's Fatal March, trang XX
  16. ^ a b c David R. Stone, A military history of Russia: from Ivan the Terrible to the war in Chechnya, trang 106
  17. ^ Adam Zamoyski, Moscow 1812: Napoleon's Fatal March, các trang X-XVII.
  18. ^ “Napoleon's Invasion of Russia, 1812”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2008.
  19. ^ Adam Zamoyski, Moscow 1812: Napoleon's Fatal March, trang 146

Tài liệu tham khảo

Sách
Các tạp chí

Đọc thêm

Không hư cấu

Tiểu thuyết

Khác

War and Peace, Sergey Sergeyevich Prokofiev

Liên kết ngoài