Bước tới nội dung

Wikipedia:Bài viết chọn lọc/2020

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024
Bài viết chọn lọc năm 2020
Tháng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Tuần 1

Áp thấp nhiệt đới Ten (2005) là một xoáy thuận nhiệt đới hoạt động với thời gian ngắn và yếu, là hệ thống thứ mười của mùa bão kỷ lục Bắc Đại Tây Dương 2005. Nó hình thành vào ngày 13 tháng 8 từ một con sóng nhiệt đới xuất phát từ bờ biển phía tây của châu Phi vào ngày 8 tháng 8. Do tác động mạnh của gió đứt, nó suy yếu dần và không còn đủ mạnh nên chỉ còn được đánh giá là áp thấp nhiệt đới. Nó bị suy yếu nặng vào ngày 14 tháng 8, nhưng tàn dư của nó đã góp phần vào sự hình thành bão Katrina, sau khi hợp nhất với một con sóng nhiệt đới vào ngày 19 tháng 8. Do đó, nó thường được gọi là "tiền thân của Katrina". Áp thấp nhiệt đới này không ảnh hưởng đến đất liền và không trực tiếp gây ra bất kỳ trường hợp tử vong hoặc thiệt hại đáng kể nào. [ Đọc tiếp ]

Tuần 2

(Từ trái sang phải) Nhà sản xuất Kathleen Kennedy, đạo diễn kiêm nhà biên kịch J. J. Abrams và nhà biên kịch Lawrence Kasdan phát biểu tại sự kiện San Diego Comic-Con International 2015.

Star Wars: Thần lực thức tỉnh là một phim điện ảnh sử thi không gian của Mỹ năm 2015 do J. J. Abrams đạo diễn. Đây là phần tiếp nối của phim điện ảnh Sự trở lại của Jedi công chiếu năm 1983, đồng thời cũng là phần phim đầu tiên trong bộ ba phần phim hậu truyện của loạt phim Star Wars. Phim do hai hãng phim Lucasfilm Ltd.Bad Robot Productions sản xuất, đồng thời được phân phối trên toàn thế giới bởi hãng Walt Disney Studios Motion Pictures. Star Wars: Thần lực thức tỉnh có sự tham gia diễn xuất của Harrison Ford, Mark Hamill, Carrie Fisher, Adam Driver, Daisy Ridley, John Boyega, Oscar Isaac, Lupita Nyong'o, Andy Serkis, Domhnall Gleeson, Anthony Daniels, Peter MayhewMax von Sydow. Đây là phim điện ảnh đầu tiên trong loạt phim Star Wars không có sự giúp đỡ sản xuất của nhà sáng tạo thương hiệu George Lucas. Phim lấy bối cảnh vào thời điểm 30 năm sau các sự kiện ở phần phim Sự trở lại của Jedi; theo chân ba nhân vật mới là Rey, Finn và Poe Dameron trong cuộc tìm kiếm hiệp sĩ Jedi cuối cùng, Luke Skywalker, và cuộc chiến của họ cùng phe Kháng chiến, dưới sự dẫn dắt từ những cựu binh của Liên minh Nổi dậy, chống lại Kylo Ren và Tổ chức Thứ nhất, một tàn dư của Đế chế Thiên hà.

Dự án Thần lực thức tỉnh được công bố ngay sau khi Công ty Walt Disney mua lại Lucasfilm vào tháng 10 năm 2012. Phim do J. J. Abrams, Bryan BurkKathleen Kennedy sản xuất. Abrams và Lawrence Kasdan, đồng biên kịch của Đế chế phản công (1980) và Sự trở lại của Jedi (1983) đã cùng nhau tái hợp để viết lại phần kịch bản ban đầu của Michael Arndt. John Williams, nhà soạn nhạc cho tất cả các phần phim trước đó, cũng trở lại để thực hiện phần nhạc nền cho bộ phim. George Lucas, cha đẻ của thế giới Star Wars, đảm nhiệm vai trò cố vấn sáng tạo cho các nhà sản xuất trong những ngày đầu làm phim. Thần lực thức tỉnh bắt đầu được bấm máy vào tháng 4 năm 2014 ở Abu DhabiIceland, với công đoạn quay phim chính được thực hiện ở Ireland và tại hãng phim Pinewood Studios ở Anh. Phim được đóng máy vào tháng 11 năm 2014. Đây là phim điện ảnh người đóng đầu tiên kể từ khi Sự báo thù của người Sith (2005) được phát hành mười năm trước đó. [ Đọc tiếp ]

Tuần 3

Thiên kiến xác nhận là một khuynh hướng của con người ưa chuộng những thông tin nào xác nhận các niềm tin hoặc giả thuyết của chính họ. Con người biểu hiện thiên kiến hoặc định kiến này khi họ thu thập hoặc ghi nhớ thông tin một cách có chọn lọc theo cảm quan của mình, hoặc khi họ diễn giải nó một cách thiên vị và thường đi kèm với sự từ chối xem xét các góc nhìn khác. Ảnh hưởng của thiên kiến xác nhận mạnh hơn đối với các vấn đề liên quan tới cảm xúc, hoặc những niềm tin đã ăn sâu vào tâm thức. Người ta cũng có xu hướng diễn dịch bằng chứng không rõ ràng để ủng hộ cho lập trường có sẵn của họ. Sự tìm kiếm bằng chứng, giải thích và ghi nhớ một cách thiên vị cũng được viện dẫn để giải thích phân cực thái độ (khi bất đồng trở nên cực đoan hơn mặc dù các bên khác nhau đều tiếp xúc với cùng một bằng chứng), tín điều cố chấp (khi những tín điều vẫn tồn tại ngay cả khi bằng chứng rằng nó sai lầm đã được đưa ra), hiệu ứng ưu tiên phi lý (khi người ta tin tưởng hơn vào thông tin nhận trước trong một loạt thông tin), tương quan ảo tưởng (khi người ta nhận thức một cách sai lầm về mối tương quan giữa hai sự kiện hoặc tình huống). Một loạt các thí nghiệm trong những năm 1960 đề xuất rằng con người có xu hướng thiên vị những gì xác nhận niềm tin hiện có của họ. Các nghiên cứu sau đó đã giải thích lại những kết quả này như một khuynh hướng kiểm tra ý niệm một chiều, tập trung vào một khả năng và bỏ qua những khả năng khác. Trong một số tình huống, khuynh hướng này có thể làm lệch lạc nhận thức và kết luận của con người. Quyết định sai lầm do những thiên kiến này ​​đã được thấy trong các bối cảnh chính trị và tổ chức. [ Đọc tiếp ]

Tuần 4

Nữ diễn viên Matsuoka Mayu (ảnh) lồng tiếng nhân vật chính Ishida Shōya lúc đang là học sinh sơ trung trong phim.
Nữ diễn viên Matsuoka Mayu (ảnh) lồng tiếng nhân vật chính Ishida Shōya lúc đang là học sinh sơ trung trong phim.

Dáng hình thanh âm là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản đề tài chính kịch học đường ra mắt năm 2016, do xưởng phim Kyōto Animation sản xuất, Yamada Naoko đạo diễn và Yoshida Reiko chắp bút phần kịch bản. Người phụ trách khâu thiết kế nhân vật nổi bật trong phim là Nishiya Futoshi trong khi phần âm nhạc được đảm nhiệm bởi nhà soạn nhạc Ushio Kensuke. Nội dung chính của phim xoay quanh hai nhân vật chính là Ishida Shōya và cô bạn khiếm thính bẩm sinh Nishimiya Shōko - mối quan hệ của họ đã vẽ nên mối liên kết giữa con người với con người và cả những thất vọng trong giao tiếp. Tác phẩm dựa trên manga cùng tên do nữ tác giả manga Ōima Yoshitoki viết kịch bản và vẽ minh họa; manga nguyên tác đã được cấp phép bản quyền cho nhà xuất bản Trẻ dưới tựa đề tiếng Việt chính thức là Dáng hình thanh âm. Phim công chiếu lần đầu tại Nhật Bản vào ngày 17 tháng 9 năm 2016 và trên toàn cầu từ tháng 2 năm 2017 đến tháng 8 năm 2018.

Dáng hình thanh âm đã giành được một số đề cử giải thưởng, trong đó gồm đề cử "Phim hoạt hình xuất sắc nhất" tại Giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 40, chiến thắng tại Giải phê bình điện ảnh Nhật Bản lần thứ 26 hạng mục phim hoạt hình, đề cử tại giải thưởng Liên hoan Nghệ thuật truyền thông Nhật Bản lần thứ 20, và được Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản khuyến nghị nên xem. Bộ phim đã có nhiều buổi công chiếu dành cho người khiếm thính tại các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. [ Đọc tiếp ]

Tuần 5

"Imagine" là ca khúc do nhạc sĩ-ca sĩ người Anh John Lennon sáng tác và thể hiện. Đây là đĩa đơn bán chạy nhất trong sự nghiệp đơn ca của ca sĩ này. Lời bài hát cổ vũ người nghe hãy tưởng tượng ra một thế giới hoà bình, không có biên giới chia cắt các quốc gia, không có sự chia rẽ giữa các tôn giáo và sắc tộc, và thể hiện mong muốn rằng xã hội loài người sẽ sống một cuộc sống không chịu sự chi phối của của cải vật chất. Lennon và Yoko Ono đồng sản xuất đĩa đơn này cũng như album cùng tên với Phil Spector. Quá trình thu âm bắt đầu tại phòng thu tại gia của Lennon tại Công viên Tittenhurst, Anh vào tháng 5 năm 1971. Công đoạn ghi âm đè cuối cùng diễn ra tại phòng thu Record Plant, ở thành phố New York vào tháng 7. Một tháng sau khi phát hành dưới dạng đĩa than LP vào tháng 9, Lennon cho ra mắt "Imagine" dưới dạng một đĩa đơn tại Hoa Kỳ; ca khúc lên tới vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 còn bản thu trên đĩa than LP đứng đầu bảng xếp hạng Anh quốc vào tháng 11, sau này trở thành album có thành công chuyên môn và thương mại cao nhất trong sự nghiệp solo của Lennon. Broadcast Music, Inc. thống kê "Imagine" là một trong số 100 ca khúc được biểu diễn nhiều nhất thế kỷ 20. Ca khúc đứng thứ 30 trong danh sách 365 Ca khúc của Thế kỷ có ảnh hưởng lịch sử lớn nhất của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. [ Đọc tiếp ]

Tuần 6

Trần Nhân Tông là vị hoàng đế thứ ba của vương triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Là con trai trưởng của Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đã được vua cha truyền ngôi vào tháng 11 năm 1278 – lúc ông chưa đầy 20 tuổi. Ông trị vì từ năm 1278 đến năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng từ năm 1293 cho đến khi qua đời. Vị hoàng đế trẻ sớm phải đương đầu với hiểm họa xâm lược từ đế quốc Mông-Nguyên hùng mạnh ở phương Bắc. Do vậy, ngay sau khi lên ngôi Trần Nhân Tông đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức mạnh kinh tế và ổn định chính trịxã hội của Đại Việt, đồng thời xây dựng quan hệ tích cực với nước láng giềng phía nam là Chiêm Thành. Sau khi đẩy lùi các cuộc xâm lược của người Mông, Trần Nhân Tông đã khôi phục được sự ổn định và hưng thịnh của Đại Việt, đồng thời thực thi phương sách ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Năm 1293, ông truyền ngôi cho thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó Nhân Tông xuất gia tu hành theo đạo Phật và lấy hiệu Trúc Lâm đại sĩ, là vị tổ sáng lập của Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam và tinh thần nhập thế. Trần Nhân Tông được nhiều sử gia đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ 13, cũng cho việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước. [ Đọc tiếp ]

Tuần 7

Virus

Virus là một tác nhân truyền nhiễm chỉ nhân lên được khi ở bên trong tế bào sống của một sinh vật khác. Virus có thể xâm nhiễm vào tất cả các dạng sinh vật, từ động vật, thực vật cho tới vi khuẩnvi khuẩn cổ. Kể từ bài viết đầu tiên của Dmitri Ivanovsky năm 1892, mô tả về một dạng mầm bệnh không thuộc vi khuẩn mà lây nhiễm vào cây thuốc lá, và sự khám phá ra virus khảm thuốc lá của Martinus Beijerinck năm 1898, cho đến nay có khoảng 5.000 loại virus đã được miêu tả chi tiết, mặc dù vẫn còn có tới hàng triệu dạng virus khác nhau. Virus được tìm thấy ở hầu hết mọi hệ sinh thái trên Trái Đất và là dạng có số lượng nhiều nhất trong tất cả các thực thể sinh học. Khoa học nghiên cứu virus được biết với tên virus học (virology), một chuyên ngành phụ của vi sinh vật học. Các phần tử (hay hạt) virus (được gọi là virion) được tạo thành từ hai hoặc ba bộ phận. Hình dạng của virus có sự khác nhau, từ dạng xoắn ốc hay khối hai mươi mặt đều đơn giản cho tới những cấu trúc phức tạp hơn. Một virus có kích thước trung bình vào khoảng 1/100 kích cỡ trung bình của một vi khuẩn. Hầu hết virus đều quá nhỏ nên không thể quan sát trực tiếp dưới kính hiển vi quang học. Virus được công nhận là một dạng sống bởi một số nhà khoa học, do chúng có mang vật chất di truyền, có thể sinh sản và tiến hóa thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên. [ Đọc tiếp ]

Tuần 8

Các vùng chiến sự chính trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979

Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 là cuộc chiến ngắn nhưng bạo liệt khi Trung Quốc đem quân đánh vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc bắt đầu vào ngày 17 tháng 2 năm 1979. Chiến tranh biên giới Việt – Trung xuất phát từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia và ý đồ “dạy cho Việt Nam một bài học” của Đặng Tiểu Bình, kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho cả hai phía.

Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc hoàn thành rút quân vào ngày 18 tháng 3 năm 1979, sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng và một số thị trấn vùng biên. Sau đó cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố đã chiến thắng.

Mục tiêu của Trung Quốc buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia không thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới vẫn còn tiếp diễn thêm hơn mười năm. Tới năm 1991, Quan hệ ngoại giao Trung–Việt mới chính thức được bình thường hóa. [ Đọc tiếp ]

Tuần 9

Siegmund Lubin, người đã thành lập Công ty Sản xuất Lubin

How Brown Saw the Baseball Game, còn được biết với cái tên How Jones Saw the Baseball Game, là một bộ phim câm ngắn thuộc thể loại hài của Mỹ được sản xuất và phát hành vào năm 1907 bởi Công ty Sản xuất Lubin. Bộ phim theo chân một người hâm mộ bóng chày tên là Brown. Ông uống rất nhiều rượu trước khi xem một trận bóng chày và trở nên say đến nỗi ông trông thấy trận đấu như chuyển động ngược lại. Trong quá trình sản xuất, để đạt được hiệu ứng này, nhà làm phim đã sử dụng một kỹ thuật đặc biệt.

Bộ phim được phát hành vào tháng 11 năm 1907 và nhận được những đánh giá tích cực trong số phát hành năm 1908 của tạp chí điện ảnh The Moving Picture World, cho biết bộ phim đã thành công và "thực sự hài hước". Tính đến năm 2015, không ai chắc chắn tồn tại bất cứ một bản phát hành của bộ phim, cũng như danh tính của dàn diễn viên và đoàn làm phim. Các nhà nghiên cứu lịch sử điện ảnh đã ghi nhận những điểm tương đồng giữa cốt truyện của How Brown Saw the Baseball Game và bộ phim hài How the Office Boy Saw the Ball Game của đạo diễn Edwin S. Porter phát hành năm 1906. [ Đọc tiếp ]

Tuần 10

Các mảnh kẽm 99,995%

Kẽm là một nguyên tố kim loại lưỡng tính, kí hiệu là Zn và có số nguyên tử là 30. Nó là nguyên tố đầu tiên trong nhóm 12 của bảng tuần hoàn nguyên tố. Kẽm, trên một số phương diện, có tính chất hóa học giống với magiê, vì ion của chúng có bán kính giống nhau và có trạng thái ôxy hóa duy nhất ở điều kiện bình thường là +2. Kẽm là nguyên tố phổ biến thứ 24 trong lớp vỏ Trái Đất và có 5 đồng vị bền. Quặng kẽm phổ biến nhất là quặng sphalerit, một loại kẽm sulfua. Những mỏ khai thác lớn nhất nằm ở Úc, CanadaHoa Kỳ. Công nghệ sản xuất kẽm bao gồm tuyển nổi quặng, thiêu kết, và cuối cùng là chiết tách bằng dòng điện. Đồng thau là một hợp kim của đồng và kẽm đã bắt đầu được sử dụng muộn nhất từ thế kỷ 10 TCN tại Judea và thế kỷ 7 TCN tại Hy Lạp cổ đại. Mãi cho đến thế kỷ 12 thì kẽm nguyên chất mới được sản xuất quy mô lớn ở Ấn Độ, và đến cuối thế kỷ 16 thì người châu Âu mới biết đến kẽm kim loại. Các mỏ ở Rajasthan được khai thác từ thế kỷ 6 TCN. Cho đến nay, bằng chứng cổ xưa nhất về kẽm tinh khiết là từ Zawar ở Rajasthan vào khoảng thế kỷ 9, người ta dùng phương pháp chưng cất để tạo ra kẽm nguyên chất. Các nhà giả kim thuật đốt kẽm trong không khí để tạo thành một chất mà họ gọi là "len của nhà triết học" hay "tuyết trắng". [ Đọc tiếp ]

Tuần 11

Bìa của bài thơ nói về chủ đề tiến hóa của Erasmus Darwin, Temple of Nature cho thấy một nữ thần kéo lại bức màn từ thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và ẩn dụ thường đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử sinh học.

Lịch sử sinh học là nghiên cứu lịch sử về thế giới sống từ thời cổ đại đến hiện đại. Mặc dù khái niệm sinh học với tư cách là một lĩnh vực độc lập chỉ mới xuất hiện trong thế kỷ 19, ngành khoa học này đã có tiền đề trong nhiều lĩnh vực như y học, dược học cho đến lịch sử tự nhiên, với nguồn gốc từ tận nền y học Ấn Độ cổ đại Ayurveda, y học Ai Cập cổ đại và các tác phẩm của AristotleGalen trong thế giới Hy-La. Các tác phẩm cổ đại được phát triển thêm trong thời kỳ Trung Cổ bởi các thầy thuốc Hồi giáo và các học giả như Avincenna. Trong thời kỳ Phục hưng và đầu thời kỳ hiện đại, những tư tưởng sinh học đã được cách mạng hóa ở châu Âu nhờ những quan tâm được làm mới lại trong chủ nghĩa kinh nghiệm và việc phát hiện nhiều sinh vật mới lạ. Những học giả nổi bật trong giai đoạn này là các nhà giải phẫu Andreas VesaliusWilliam Harvey, những người đã tiến hành các thí nghiệm và quan sát chi tiết trong sinh lý học; hay các nhà tự nhiên học như Carl LinnaeusGeorges Louis Leclerc, họ đã bắt đầu phân loại các loài và ghi chép hóa thạch cũng như nghiên cứu sự phát triển và tập tính sinh vật. Antonie van Leeuwenhoek khám phá ra thế giới vi sinh vật chưa từng được biết đến khi phát minh ra kính hiển vi, đặt cơ sở cho sự hình thành của thuyết tế bào. Vị thế ngày càng tăng của ngành thần học tự nhiên trong quá trình cạnh tranh với triết học cơ học (mechanical philosophy) đã thúc đẩy sự phát triển của ngành lịch sử tự nhiên (mặc dù nó vẫn còn bám vào luận cứ mục đích cho rằng Đấng sáng tạo thiết kế ra vạn vật). [ Đọc tiếp ]

Tuần 12

Những người Trung Quốc biểu tình cầm ảnh chân dung Mao Trạch Đông tại Thẩm Dương ngày 18 tháng 9 năm 2012.

Biểu tình bài Nhật tại Trung Quốc năm 2012 là một loạt các cuộc biểu tình bài Nhật Bản được tổ chức ở các thành phố lớn tại Trung QuốcĐài Loan trong khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 9 năm 2012. Nguyên nhân chính của các cuộc biểu tình là sự leo thang tranh chấp quần đảo Senkaku giữa Trung Quốc và Nhật Bản xoay quanh thời điểm kỷ niệm Sự kiện Phụng Thiên năm 1931, một xúc tác de facto để Nhật Bản xâm lược Mãn Châu, đỉnh điểm là một thất bại bẽ mặt của Trung Quốc và một chiến thắng quyết định của Nhật Bản trong việc hợp nhất và sáp nhập Mãn Châu. Các cuộc biểu tình nổ ra tại mỗi thành phố của Trung Quốc kể từ sự kiện nhà hoạt động Hồng Kông đổ bộ quần đảo Senkaku và chính phủ Nhật Bản tiến hành quốc hữu hóa quần đảo Senkaku, trở thành cuộc biểu tình lớn nhất kể từ khi hai quốc gia bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1972. Những người phản đối tại một số thành phố sau đó trở nên bạo lực, chính quyền địa phương bắt đầu bắt giữ người biểu tình và cấm các cuộc biểu tình. Ngoài các cuộc biểu tình bài Nhật và chỉ trích Hoa Kỳ, một số cuộc biểu tình đã chỉ trích chính phủ Trung Quốc về những bất mãn xã hội. Tác động từ căng thẳng ngoại giao khiến thương mại song phương giữa hai quốc gia bị thiệt hại và ảnh hưởng kéo dài trong vài năm tiếp theo. [ Đọc tiếp ]

Tuần 13

Chân dung Emmy Noether

Amalie Emmy Noether (23 tháng 3 năm 1882 – 14 tháng 4 năm 1935) là nhà toán học có ảnh hưởng người Đức nổi tiếng vì những đóng góp nền tảng và đột phá trong lĩnh vực đại số trừu tượngvật lý lý thuyết. Được Pavel Alexandrov, Albert Einstein, Jean Dieudonné, Hermann Weyl, Norbert Wiener và những người khác miêu tả là một trong những nhà nữ toán học quan trọng nhất trong lịch sử toán học, bà đã làm nên cuộc cách mạng trong lý thuyết vành, trường và đại số trên một trường. Trong vật lý học, định lý Noether giải thích mối liên hệ sâu sắc giữa tính đối xứng và các định luật bảo toàn.

Các công trình toán học của Noether được chia thành ba "kỷ nguyên" chính. Trong giai đoạn đầu (1908–19), bà có những đóng góp quan trọng cho lý thuyết các bất biến đại số và trường số. Nghiên cứu về bất biến vi phân trong phép tính biến phân, hay định lý Noether, đã trở thành "một trong những định lý toán học quan trọng nhất từng được chứng minh giúp thúc đẩy sự phát triển của vật lý hiện đại". Trong kỷ nguyên thứ hai (1920–26), bà bắt đầu công trình mà "thay đổi bộ mặt của đại số [trừu tượng]". Trong bài báo Idealtheorie in Ringbereichen (Lý thuyết các iđêan trong miền vành, 1921) Noether phát triển lý thuyết iđêan trong vành giao hoán trở thành một công cụ mạnh với ứng dụng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực. [ Đọc tiếp ]

Tuần 14

Anne Frank (12 tháng 6 năm 1929 - 12 tháng 3 năm 1945) là nhà văn và tác giả hồi ký người Đức. Cô là một trong những nạn nhân người Do Thái được biết đến nhiều nhất trong cuộc tàn sát Holocaust. Tác phẩm Nhật ký Anne Frank, ghi chép lại cuộc đời của cô trong khi ẩn náu lúc quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng thời Thế chiến thứ 2, là một trong những quyển sách nổi tiếng nhất thế giới, gây cảm hứng cho nhiều vở diễn và tác phẩm điện ảnh. Sinh ra tại Frankfurt am Main, Đức, Anne lớn lên gần Amsterdam, Hà Lan. Sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền vào tháng 1 năm 1933, gia đình Anne Frank rời khỏi Frankfurt đến Amsterdam cuối năm 1933 để thoát khỏi sự truy đuổi của Đức Quốc xã. Vào năm 1941, cô bị tước đi tư cách công dân và trở thành người không có quốc tịch. Từ tháng 7 năm 1942, họ sống trốn tránh trong những căn phòng được ngụy trang, khi đó Anne 13 tuổi. Sau hai năm, do bị phản bội, gia đình Anne bị phát hiện và đưa tới trại tập trung của Đức Quốc xã. Vào tháng 2 hoặc tháng 3 năm 1945, Anne cùng chị gái Margot Frank lìa đời tại trại Bergen-Belsen, chỉ vài tuần lễ trước khi binh lính Anh đến giải phóng trại vào ngày 15 tháng 4 năm 1945. Trại tập trung bị thiêu rụi để dập dịch, còn thi thể của Anne và Margot bị vùi trong một ngôi mộ tập thể, cho đến nay vẫn chưa xác định được địa điểm. [ Đọc tiếp ]

Tuần 15

Một phiên bản của động tác "ném bốn hướng" (shihōnage) với người tấn công đang đứng và người phòng thủ ngồi.

Aikido (Hiệp khí đạo) là một môn võ thuật Nhật Bản hiện đại được phát triển bởi Ueshiba Morihei như một sự tổng hợp các nghiên cứu võ học, triết học và tín ngưỡng của ông. Aikido có thể được dịch là "con đường hiệp nhất (với) năng lượng cuộc sống" hoặc "con đường của tinh thần hài hòa". Mục tiêu của Ueshiba là tạo ra một nghệ thuật mà các môn sinh có thể sử dụng để tự bảo vệ mình trong khi vẫn bảo vệ người tấn công khỏi bị thương. Các kĩ thuật của Aikido bao gồm: irimi (nhập thân), chuyển động xoay hướng (tenkan - chuyển hướng đà tấn công của đối phương), các loại động tác ném và khóa khớp khác nhau.

Aikido chủ yếu xuất phát từ môn võ Daitō-ryū Aiki-jūjutsu, nhưng bắt đầu tách ra từ nó vào cuối những năm 1920, một phần do sự liên quan của Ueshiba với tôn giáo Ōmoto-kyō. Những tài liệu của những môn sinh ban đầu của Ueshiba ghi lại tên gọi môn võ là aiki-jūjutsu. Các môn sinh cấp cao của Ueshiba có những cách tiếp cận khác nhau với Aikido, phụ thuộc phần nào vào thời gian họ học tập với ông. Ngày nay, Aikido hiện diện trên khắp thế giới trong một số phong cách, với phạm vi giải thích và nhấn mạnh rộng rãi. Tuy nhiên, tất cả các phong cách này đều chia sẻ nguồn gốc từ các kỹ thuật do Ueshiba xây dựng và hầu hết đều quan tâm đến sự an toàn của người tấn công. [ Đọc tiếp ]

Tuần 16

Hình ảnh kính hiển vi điện tử quét của một bạch cầu trung tính (vàng), đang nuốt vi khuẩn bệnh than (cam). Bạch cầu hạt trung tính là loại chiếm số lượng nhiều nhất trong tổng số bạch cầu và là một bộ phận thiết yếu của hệ miễn dịch tự nhiên của cơ thể người.
Hình ảnh kính hiển vi điện tử quét của một bạch cầu trung tính (vàng), đang nuốt vi khuẩn bệnh than (cam). Bạch cầu hạt trung tính là loại chiếm số lượng nhiều nhất trong tổng số bạch cầu và là một bộ phận thiết yếu của hệ miễn dịch tự nhiên của cơ thể người.

Hệ miễn dịch là một hệ thống bảo vệ vật chủ gồm nhiều cấu trúc và quá trình sinh học của cơ thể nhằm bảo vệ chống lại bệnh tật. Để hoạt động bình thường, hệ thống miễn dịch phải phát hiện được rất nhiều yếu tố, gọi là mầm bệnh, có thể là từ virus đến ký sinh trùng, và phải phân biệt chúng với những khỏe mạnh của cơ thể. Ở nhiều loài, hệ thống miễn dịch có thể được phân thành các hệ thống nhỏ hơn, chẳng hạn như hệ thống miễn dịch bẩm sinh với hệ thống miễn dịch thu được, hoặc miễn dịch thể dịch và miễn dịch qua trung gian tế bào. Ở người, hàng rào máu–não, hàng rào máu–dịch não và các hàng rào chất lỏng–não tương tự tách biệt hệ thống miễn dịch bình thường với hệ thống miễn dịch não, vốn chuyên bảo vệ não. Các mầm bệnh có thể nhanh chóng tiến hóa và thích nghi, và do đó có thể tránh bị phát hiện và không bị vô hiệu hoá bởi hệ thống miễn dịch; tuy nhiên, nhiều cơ chế phòng thủ cũng đã tiến hóa để nhận diện và trung hòa mầm bệnh. Ngay cả các sinh vật đơn bào đơn giản như vi khuẩn cũng có hệ thống miễn dịch thô sơ dưới dạng các enzym bảo vệ (ở đây là enzym giới hạn) để chống lại các bệnh do thể thực khuẩn. Một số cơ chế miễn dịch cơ bản khác đã phát triển trong các loài sinh vật nhân chuẩn cổ đại và vẫn còn trong hậu duệ hiện đại của chúng, như ở thực vậtđộng vật không xương sống. Các cơ chế này bao gồm thực bào, các peptide kháng khuẩn được gọi là defensin, và hệ thống bổ thể. Các động vật có quai hàm, bao gồm cả con người, còn có cơ chế phòng vệ tinh vi hơn, bao gồm khả năng thích ứng theo thời gian để nhận ra các mầm bệnh cụ thể hiệu quả hơn. [ Đọc tiếp ]

Tuần 17

Thảm sát Katyn (cũng được gọi là vụ thảm sát rừng Katyn) là một cuộc thảm sát những người quốc gia Ba Lan do Bộ Dân ủy Nội vụ, cảnh sát mật Liên xô thực hiện vào tháng 4 và tháng 5 năm 1940. Vụ thảm sát khởi đầu từ đề xuất của L. P. Beriya hành quyết tất cả các sỹ quan Ba Lan, ngày 5 tháng 3 năm 1940. Tài liệu chính thức này đã được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, gồm cả lãnh đạo I. V. Stalin, ký và đóng dấu. Số lượng nạn nhân được ước tính khoảng 22.000 người, với con số thấp là 21.768 người. Mặc dù các vụ giết hại cũng xảy ra ở các nhà tù KalininKharkiv và những nơi khác, vụ thảm sát được đặt theo tên của Rừng Katyn, nơi một số ngôi mộ tập thể được phát hiện lần đầu tiên. Trong tổng số người bị giết hại, khoảng 8.000 là các sỹ quan Ba Lan bị bắt làm tù binh trong cuộc xâm chiếm Ba Lan của Liên Xô năm 1939, 6.000 người khác là các sỹ quan cảnh sát, số còn lại là những người thuộc giới trí thức Ba Lan bị bắt giữ vì bị coi là các "nhân viên tình báo, sen đầm, địa chủ, những kẻ phá hoại, chủ nhà máy, luật sư, viên chức và thầy tu."

Chính phủ Đức Quốc xã đã thông báo việc phát hiện những ngôi mộ tập thể ở rừng Katyn năm 1943. Khi Chính phủ Ba Lan lưu vong tại Luân Đôn yêu cầu Chữ thập đỏ quốc tế điều tra, Stalin ngay lập tức chấm dứt quan hệ ngoại giao với chính phủ này. Liên Xô tuyên bố các nạn nhân đã bị phát xít Đức giết hại, và tiếp tục phủ nhận trách nhiệm với các vụ xử bắn cho tới năm 1990, khi tổng thống Gorbachev chính thức thừa nhận và lên án việc xử bắn tù binh của NKVD, cũng như sự từ chối sau đó của chính phủ Liên Xô. [ Đọc tiếp ]

Tuần 18

Siêu tân tinh loại Ia SN 1994D (ở phía dưới bên trái) có độ sáng hơn cả thiên hà chứa nó, NGC 4526.
Siêu tân tinh loại Ia SN 1994D (ở phía dưới bên trái) có độ sáng hơn cả thiên hà chứa nó, NGC 4526.

Siêu tân tinh hay sao siêu mới là một sự kiện thiên văn học biến đổi tức thời xảy ra trong giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa sao ở các sao khối lượng lớn, mà một vụ nổ khổng lồ cuối cùng đánh dấu sự hủy diệt của sao. Sự kiện bất thình lình này tạo ra một ngôi sao sáng "mới", trước khi dần phai mờ trong vòng vài tuần đến vài tháng. Siêu tân tinh là sự kiện mãnh liệt hơn sự kiện sao mới (nova). Trong tiếng Latinh, nova có nghĩa là "mới", mà trong thiên văn học đề cập đến sự xuất hiện tạm thời của một sao sáng mới. Tiền tố "super-siêu" phân biệt siêu tân tinh từ tân tinh thông thường, có độ sáng nhỏ hơn rất nhiều. Thuật ngữ supernova do Walter Baade và Fritz Zwicky đặt ra từ năm 1931. Chỉ có ba siêu tân tinh xảy ra trong Ngân Hà được quan sát bằng mắt thường trong 1000 năm qua, mặc dù rất nhiều sự kiện ở các thiên hà khác nhau đã được quan sát bằng kính thiên văn. Lần quan sát trực tiếp siêu tân tinh thuộc Ngân Hà gần đây nhất đó là siêu tân tinh Kepler xảy ra năm 1604, tuy có thêm hai tàn tích siêu tân tinh xảy ra gần đây cũng được phát hiện. Dựa trên thống kê số lượng siêu tân tinh quan sát ở các thiên hà khác cho ước tính, trung bình, trong Ngân Hà có khoảng 3 sự kiện xảy ra ở mỗi thế kỷ và gần như sẽ quan sát được siêu tân tinh bằng các kính thiên văn hiện đại nếu chúng xảy ra trong Ngân Hà. [ Đọc tiếp ]

Tuần 19

Người có hai hồi hải mã nằm ở hai bên bán cầu não. Hồi hải mã nằm ở thùy thái dương trong của não. Ở vị trí quan sát từ phía ngoài não, thùy trán ở bên trái, thùy chẩm ở bên phải và thùy thái dương, thùy đỉnh được cắt bỏ phần lớn để quan sát được hồi hải mã nằm ẩn ở phía dưới.
Người có hai hồi hải mã nằm ở hai bên bán cầu não. Hồi hải mã nằm ở thùy thái dương trong của não. Ở vị trí quan sát từ phía ngoài não, thùy trán ở bên trái, thùy chẩm ở bên phải và thùy thái dương, thùy đỉnh được cắt bỏ phần lớn để quan sát được hồi hải mã nằm ẩn ở phía dưới.

Hồi hải mã là thành phần quan trọng có trong não người và các động vật có xương sống khác. Con người và động vật có vú có hai hồi hải mã nằm ở hai bên não. Hồi hải mã là một phần của hệ viền (hệ limbic), có vai trò quan trọng trong việc củng cố trí nhớ từ trí nhớ ngắn hạn đến trí nhớ dài hạn và trí nhớ không gian cho phép điều hướng. Hồi hải mã nằm dưới vỏ đại não trong vỏ não nguyên thủy, và ở bộ linh trưởng, hải mã nằm trong vùng trung gian thùy thái dương. Nó chứa hai phần lồng vào nhau: hải mã đích danh và hồi răng.

Khi mắc bệnh Alzheimer (và các dạng suy giảm trí nhớ khác), hải mã là một trong những vùng đầu tiên của não bị tổn thương, triệu chứng ban đầu là mất trí nhớ ngắn hạn và mất phương hướng. Tổn thương hải mã cũng có thể là do giảm oxy huyết, viêm não hoặc động kinh vùng trung gian thùy thái dương. Những người bị tổn thương hải mã rộng, ở hai bên có thể bị chứng quên về sau: không có khả năng hình thành và lưu giữ những ký ức mới.

Do các tế bào thần kinh khác nhau được sắp xếp gọn gàng tầng tầng lớp lớp trong vùng hải mã, nên các nhà khoa học đã tạo nên mô hình khoa học để nghiên cứu sinh lý học thần kinh. Tính mềm dẻo synapse được biết đến trong quá trình điện thế hoá dài hạn được phát hiện xảy ra ở hải mã và các nghiên cứu thường tập trung cấu trúc này. LTP được cho là một trong những cơ chế thần kinh chính mà theo đó các ký ức được lưu trữ trong não. [ Đọc tiếp ]

Tuần 20

Quang cảnh Badajoz nhìn qua sông Guadiana từ chân đồi San Cristóbal, tranh vẽ bởi Eugène-Ferdinand Buttura.
Quang cảnh Badajoz nhìn qua sông Guadiana từ chân đồi San Cristóbal, tranh vẽ bởi Eugène-Ferdinand Buttura.

Trận Gebora là một trận đánh trong Chiến tranh Bán đảo giữa Tây Ban NhaPháp. Trận đánh diễn ra vào ngày 19 tháng 2 năm 1811 ở phía tây bắc Badajoz thuộc Tây Ban Nha. Tại đây, một lực lượng Pháp có quân số ít hơn đã tiêu diệt gần như toàn bộ quân đội Tây Ban Nha vùng Extremadura.

Trong một nỗ lực nhằm giải vây cho lực lượng quân Pháp của Nguyên soái André Masséna khỏi tình thế bị sa lầy trước tuyến phòng thủ Torres Vedras của Liên minh chống Pháp tại Lisbon thuộc Bồ Đào Nha, Nguyên soái Jean-de-Dieu Soult đã dẫn một phần Đạo quân Midi (Đạo quân phương Nam) của Pháp từ Andalusia tiến vào vùng Extremadura lân cận thuộc Tây Ban Nha và vây hãm thị trấn pháo đài Badajoz. Tử tước Wellington và Tướng Tây Ban Nha Pedro Caro y Sureda, Hầu tước thứ ba của La Romana đã gửi một đội quân lớn của Tây Ban Nha đến để tấn công quân Pháp. Tuy nhiên, Tướng La Romana đột ngột qua đời trước khi đội quân này xuất phát, quyền chỉ huy chuyển sang Tướng Gabriel de Mendizábal Iraeta. Vào đầu tháng 2 năm 1811, được hỗ trợ bởi một lực lượng kỵ binh nhỏ của Bồ Đào Nha, quân Tây Ban Nha đã đến thị trấn và cắm trại trên đỉnh núi San Cristóbal gần đó.

Khi Mendizabal phớt lờ cảnh báo của Wellington và thất bại trong việc củng cố phòng thủ, Nguyên soái Soult đã lợi dụng tình thế dễ tổn thương của Tây Ban Nha để phái một lực lượng nhỏ tấn công quân Tây Ban Nha. Vào sáng ngày 19 tháng 2, quân Pháp dưới quyền Nguyên soái Édouard Mortier đã nhanh chóng đánh bại quân Tây Ban Nha, gây ra 1.000 thương vong và bắt 4.000 tù binh trong khi chỉ mất 400 người. Chiến thắng này cho phép Soult tiếp tục tập trung vào cuộc tấn công Badajoz của ông và sau cùng Badajoz rơi vào tay Pháp từ ngày 11 tháng 3 kéo dài cho đến năm sau. [ Đọc tiếp ]

Tuần 21

Chân dung Edward Stratemeyer năm 1953, ông là người đã sáng tạo và xuất bản loạt truyện Nancy Drew.
Chân dung Edward Stratemeyer năm 1953, ông là người đã sáng tạo và xuất bản loạt truyện Nancy Drew.

Nancy Drew là một nhân vật hư cấu và là nhân vật chính trong loạt tác phẩm trinh thám ly kỳ Mỹ của nhà văn Edward Stratemeyer. Nhân vật được xem như phiên bản nữ của loạt truyện Hardy Boys. Nancy Drew ra mắt công chúng lần đầu tiên năm 1930 trong tác phẩm The Secret of the Old Clock. Các tập truyện do nhiều người cùng viết dưới một bút danh chung là Carolyn Keene. Trải qua nhiều thập niên, hình tượng nhân vật Nancy đã thay đổi để thích ứng với những khác biệt văn hóa và thị hiếu Hoa Kỳ trong các thời kỳ khác nhau. Từ năm 1959, nội dung các tập truyện được chỉnh lại và rút gọn lại, một phần để giảm chi phí in ấn và sự thành công vẫn trong vòng tranh cãi. Trong quá trình sửa đổi, nhân vật nữ anh hùng trong bản gốc đã được xây dựng lại thành một hình tượng bớt bướng bỉnh và ít bạo lực hơn. Vào thập niên 1980, loạt truyện mới The Nancy Drew Files ra đời với hình ảnh Nancy trưởng thành và chuyên nghiệp hơn, có cả những tình tiết lãng mạn kèm theo. Loạt truyện gốc Nancy Drew Mystery Stories ra mắt vào năm 1930 và kết thúc vào năm 2003. Từ năm 2004, Nancy trong loạt truyện Girl Detective đã lái xe hơi hybrid chạy điện hiện đại cũng như sử dụng điện thoại di động. Năm 2012, loạt Girl Detective kết thúc, được thay thế bằng Nancy Drew Diaries ra mắt vào năm 2013. Hình tượng nhân vật phát triển theo thời gian phù hợp với bối cảnh đương thời. Loạt truyện được phổ biến liên tục trên toàn thế giới: ít nhất 80 triệu bản sách đã được bán ra và được dịch sang hơn 45 thứ tiếng. Nancy Drew được chuyển thể trong sáu phim điện ảnh, bốn phim truyền hình và một số trò chơi điện tử phổ biến; hình ảnh nhân vật cũng xuất hiện trong một loạt các mặt hàng khác trên khắp thế giới. [ Đọc tiếp ]

Tuần 22

Chân dung Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn.
Chân dung Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn.

Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn (sinh 1952) là một giám mục Công giáo người Việt, hiện là giám mục chính tòa của Giáo phận Bà Rịa và Chủ tịch Uỷ ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ 2019 – 2022. Ông từng đảm nhận vai trò Chủ tịch Uỷ ban Phụng tự nhiệm kỳ 2016 – 2019 và giám mục phó Giáo phận Bà Rịa từ năm 2015 đến năm 2017. Khẩu hiệu Giám mục của ông là: "Vâng nghe Thánh Thần".

Giám mục Nguyễn Hồng Sơn sinh tại Đồng Nai, thuở thiếu thời theo học tại Tiểu chủng viện Sài Gòn và Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà Lạt. Năm 1980, chủng sinh Emmanuel Sơn được truyền chức linh mục, trở thành linh mục thuộc Giáo phận Xuân Lộc. Linh mục Sơn đảm nhận nhiều trách vụ linh mục của giáo phận, trong đó có bảy năm từ 1994 đến 2001 là linh mục quản hạt Giáo hạt Bà Rịa. Trong vòng bốn năm sau đó, linh mục Sơn được cử đi du học tại Học viện Công giáo Paris.

Năm 2005, với quyết định chia tách Giáo phận Xuân Lộc để thành lập Giáo phận Bà Rịa, Nguyễn Hồng Sơn trở thành linh mục giáo phận mới Bà Rịa. Từ năm 2006, linh mục Sơn đảm nhận nhiều vai trò khác nhau trong giáo phận: giám đốc Tiểu chủng viện Thánh Tôma Bà Rịa, phụ trách thường huấn linh mục, giám đốc chủng sinh, tổng thư ký Hội đồng Linh mục Giáo phận Bà Rịa từ năm 2009. Năm 2011, linh mục Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn được Giám mục Tôma Nguyễn Văn Trâm bổ nhiệm làm linh mục Tổng đại diện Giáo phận Bà Rịa. [ Đọc tiếp ]

Tuần 23

Cuộc công phá thành Caen, tranh vẽ từ tập thơ Chroniques của Jean Froissart.
Cuộc công phá thành Caen, tranh vẽ từ tập thơ Chroniques của Jean Froissart.

Trận Caen là một trận đánh trong Chiến tranh Trăm Năm giữa AnhPháp diễn ra vào ngày 26 tháng 7 năm 1346 khi quân viễn chinh Anh dưới sự chỉ huy của Edward III tấn công thành Caen do quân Pháp nắm giữ. Với lực lượng áp đảo lên tới 12.000 đến 15.000 quân, một bộ phận quân Anh dưới quyền hai bá tước là Warwick và Northampton đã tấn công trước khi có chỉ thị. Caen thất thủ chỉ sau một cuộc giao tranh, dù trong thành vẫn còn 1.000 đến 1.500 binh lính đồn trú cùng một số lượng đông đảo cư dân có vũ trang do Đại nguyên soái Pháp Raoul II dẫn dắt. Trận chiến khép lại bằng thảm cảnh 5.000 binh sĩ và cư dân trong thành bị hành quyết bởi lực lượng chiếm đóng, vài quý tộc bị bắt giữ làm tù binh. Theo sau đó là một trận cướp phá quy mô lớn kéo dài liên tục trong năm ngày.

Cuộc tấn công là một phần trong chiến dịch chinh phạt Bắc Pháp của vua Edward III. Một tháng trước cuộc tấn công, người Pháp đã thất bại trong việc ngăn quân Anh đổ bộ lên Normandie. Họ cũng bị động hoàn toàn trước 15.000 binh lính Anh tại Gascogne. Hệ quả là quân Anh không gặp phải quá nhiều kháng cự để rồi dễ dàng tàn phá cả vùng Normandie trước khi tiến đánh Caen.

Năm ngày sau cuộc tấn công, người Anh đặt chân đến Seine. Đến ngày 12 tháng 8 thì họ chỉ còn cách Paris vỏn vẹn 20 dặm (32 km). Ngày 26 tháng 8, quân Anh tiến về phía bắc và hạ gục quân Pháp trong trận Crécy. Không lâu sau, họ tiếp tục giành chiến thắng trong cuộc vây hãm Calais – trận đánh mang ý nghĩa quyết định đến thành bại của toàn bộ chiến dịch. [ Đọc tiếp ]

Tuần 24

Một dạng của Ketsuban.
Một dạng của Ketsuban.

Ketsuban, được biết đến với tên tiếng Anh là MissingNo., viết tắt của Missing Number, là một loài Pokémon không chính thức xuất hiện trong các video game Pokémon RedBlueYellow. Loài Pokémon này xuất hiện trong trò chơi là kết quả của việc lập trình một số sự kiện, đặc biệt trong việc xử lý các ngoại lệ (lỗi thực thi) xuất hiện trong phần mềm. Người chơi có thể bắt gặp Ketsuban thông qua một sự cố khi hệ thống trò chơi cố gắng truy vấn dữ liệu về các Pokémon không tồn tại. Shigeki Morimoto, một trong những lập trình viên tham gia vào dự án cho biết, ban đầu các video game Pokémon khi mới phát triển có đến 190 Pokémon, nhưng sau đó rút còn 151 loài chính thức trong phiên bản cuối cùng.

Ketsuban thường xuất hiện dưới dạng một khối đồ họa lộn xộn giống như ký tự "d" hoặc "L" bị đảo ngược và xuất hiện trong Pokédex (kho Pokémon) của người chơi với mã số 000. Khi gặp Ketsuban, người chơi sẽ thấy lỗi đồ họa bất thường và khiến số lượng vật phẩm thứ sáu của kho vật phẩm tăng lên thêm 128. Ketsuban được nhà phát hành Nintendo ghi nhận lần đầu tiên trong số phát hành tháng 5 năm 1999 của tạp chí Nintendo Power. Hãng không khuyến khích người chơi nỗ lực "bắt" Ketsuban, nhưng bất chấp cảnh báo chính thức, quy trình chiến đấu và bắt Ketsuban vẫn được in trên một số tạp chí nhằm hướng dẫn người chơi cách thức để đạt được mục đích này. Website chuyên đánh giá trò chơi điện tử IGN ghi nhận sự tồn tại của Ketsuban trong Pokémon RedBlue là một trong những lỗi kỹ thuật video game nổi tiếng nhất. Người hâm mộ của trò chơi đã cố gắng hợp thức hóa Ketsuban, biến nó trở thành một phần kinh điển trong trò chơi. Không những thế, các nhà xã hội học cũng bắt tay vào nghiên cứu tác động của Ketsuban đối với người chơi nói riêng và văn hóa chơi trò chơi đại chúng nói chung. [ Đọc tiếp ]

Tuần 25

Cleopatra ở Berlin, một bức tượng bán thân La Mã miêu tả Cleopatra VII đội một vương miện hoàng gia, giữa thế kỷ thứ 1 TCN (có thể vào khoảng lúc bà tới thăm Rome trong năm 46–44 TCN), nó được phát hiện trong một biệt thự nằm dọc theo Via Appia; ngày nay nó nằm tại Altes Museum, Antikensammlung Berlin.
Cleopatra ở Berlin, một bức tượng bán thân La Mã miêu tả Cleopatra VII đội một vương miện hoàng gia, giữa thế kỷ thứ 1 TCN (có thể vào khoảng lúc bà tới thăm Rome trong năm 46–44 TCN), nó được phát hiện trong một biệt thự nằm dọc theo Via Appia; ngày nay nó nằm tại Altes Museum, Antikensammlung Berlin.

Cleopatra VII Philopatorngười cai trị thực sự cuối cùng của Nhà Ptolemaios thuộc Ai Cập, mặc dù trên danh nghĩa vị pharaon cuối cùng là người con trai Caesarion của bà. Là một thành viên của nhà Ptolemaios, bà là hậu duệ của vị vua sáng lập Ptolemaios I Soter, một vị tướng gốc Macedonia Hy Lạp và là người bạn của Alexandros Đại đế. Sau khi Cleopatra qua đời, Ai Cập đã trở thành một tỉnh của đế quốc La Mã, đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ Hy Lạp hóa mà đã kéo dài từ triều đại của Alexandros (336–323 TCN). Ngôn ngữ mẹ đẻ của bà là tiếng Hy Lạp Koine và bà cũng là nhà cai trị đầu tiên của nhà Ptolemaios học tiếng Ai Cập.

Đến ngày nay, Cleopatra là một hình tượng nổi tiếng trong văn hóa phương Tây. Danh tiếng của bà được truyền tải dưới hình thức nhiều câu chuyện được sân khấu hoá, là đề tài của những tác phẩm hội họa, sân khấu, kịchâm nhạc. Câu chuyện về bà được miêu tả trong nhiều tác phẩm như vở kịch Antony và Cleopatra của William Shakespeare; Caesar và Cleopatra của George Bernard Shaw; vở Opera Cléopâtre của Jules Massenet và bộ phim điện ảnh Cleopatra (1963). [ Đọc tiếp ]

Tuần 26

Giuse Trần Văn Toản (sinh ngày 7 tháng 4 năm 1955) là một giám mục Công giáo người Việt. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Long Xuyên (từ năm 2019) và là người thứ tư đảm nhận cương vị này. Trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, ông hiện đảm trách vai trò Chủ tịch Ủy ban Giáo Dân thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ 2019 – 2022 và Phó Chủ tịch Ủy ban Bác ái – Xã hội (Caritas Việt Nam).

Trần Văn Toản sinh năm 1955 tại Quảng Nam, có song thân là người gốc Thái Bình. Từ năm 1966, chủng sinh Toản tu học tại nhiều chủng viện cũng như cơ sở đào tạo giáo sĩ Công giáo cho đến năm 1988 thì được truyền chức phó tế. Bốn năm sau đó, phó tế Toản được thụ phong linh mục, là linh mục giáo phận Long Xuyên. Sau một thời gian ngắn thi hành tác vụ linh mục tại giáo phận, năm 1999, linh mục Toản được cử đi du học tại Philippines trong khoảng thời gian sáu năm và tốt nghiệp với văn bằng Tiến sĩ Giáo dục. Trở về Việt Nam, ông đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau trong giáo phận, một trong số đó là chức Giám đốc Trung tâm Mục vụ Giáo phận Long Xuyên. [ Đọc tiếp ]

Tuần 27

Bức tranh sơn dầu Chiếc bè của chiến thuyền Méduse của Théodore Géricault.
Bức tranh sơn dầu Chiếc bè của chiến thuyền Méduse của Théodore Géricault.

Chiếc bè của chiến thuyền Méduse là một bức tranh sơn dầu được họa sĩ lãng mạn người Pháp Théodore Géricault (1791–1824) thực hiện trong thời gian 1818–1819. Bức tranh được hoàn thành khi ông 27 tuổi và đã trở thành một biểu tượng cho chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Với kích thước 491 cm × 716 cm (193,3 in × 282,3 in), bức tranh mô tả một khoảnh khắc là hậu quả từ vụ đắm tàu frigate Méduse của hải quân Pháp sau khi bị mắc cạn vào ngày 2 tháng 7 năm 1816 tại bờ biển thuộc về Mauritanie ngày nay.

Trong khâu lựa chọn cảnh một thảm kịch làm chủ đề cho một tác phẩm lớn đầu tay, Géricault có ý muốn lựa chọn một sự cố nổi tiếng vì nó sẽ tạo ra sự quan tâm lớn của dư luận làm đòn bẩy cho sự nghiệp của mình. Sự kiện cuốn hút người họa sĩ trẻ và trước khi ông thực hiện bản vẽ cuối cùng, ông đã tiến hành nghiên cứu sâu rộng và thực hiện rất nhiều bản phác thảo. Ông đã phỏng vấn hai trong số người còn sống sót, và xây dựng một mô hình chi tiết về chiếc bè. Ông đã đến các nhà xác và bệnh viện, để có thể quan sát rõ màu sắc và kết cấu của thịt của người sắp chết và đã chết. Như ông dự đoán, bức tranh đã gây nên rất nhiều tranh cãi khi xuất hiện lần đầu tiên tại cuộc triển lãm tranh ở Paris năm 1819, nó đã thu hút nhiều lời khen ngợi nồng nhiệt cũng như số lượng lời lên án tương ứng. Tuy nhiên, bức họa đã đạt được tiếng vang trên trường quốc tế và ngày nay được xem như hạt giống của giai đoạn đầu phong trào lãng mạn trong hội họa Pháp. [ Đọc tiếp ]

Tuần 28

Áp phích yêu cầu công khai video vụ va chạm tàu Senkaku năm 2010 tại biểu tình phản đối quần đảo Senkaku năm 2010 ở Nhật Bản
Áp phích yêu cầu công khai video vụ va chạm tàu Senkaku năm 2010 tại biểu tình phản đối quần đảo Senkaku năm 2010 ở Nhật Bản

Vụ phát tán video Senkaku năm 2010 là một vụ phát tán các video ghi hình vụ va chạm tàu ​​Senkaku năm 2010 trên mạng chia sẻ YouTube do một sĩ quan trưởng của Lực lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản khu vực Kobe thực hiện.

Trước thời điểm phát tán, Lực lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản khu vực Ishigaki đã ghi hình diễn biến vụ va chạm tàu ​​Senkaku năm 2010 và sau đó đệ trình video dưới dạng CD-ROM đến Văn phòng Công tố khu vực Naha để tổng hợp bằng chứng tư pháp truy tố thuyền trưởng tàu cá người Trung Quốc. Chính phủ Nhật Bản bị công luận chỉ trích rằng đã tiến hành can thiệp chính trị vào tư pháp, các cơ quan công tố địa phương bị cáo buộc vi phạm pháp quyền Nhật Bản khi miễn truy tố thuyền trưởng người Trung Quốc do lo ngại sự leo thang căng thẳng trong quan hệ Nhật Bản–Trung Quốc. Trong thời gian chờ truy tố thuyền thưởng tàu cá Trung Quốc tại Nhật Bản, Lực lượng Bảo vệ bờ biển Ishigaki đã giữ lại một video bản sao và lưu trữ trong một thư mục được chia sẻ trên máy chủ mạng nội bộ, vốn cho phép bất kỳ sĩ quan nào cũng có thể tự do tiếp cận và sao chép. [ Đọc tiếp ]

Tuần 29

Từ trái qua phải: Kevin Feige, Chris Hemsworth, Tom Hiddleston, Chadwick Boseman và Mark Ruffalo tại sự kiện San Diego Comic-Con 2017.
Từ trái qua phải: Kevin Feige, Chris Hemsworth, Tom Hiddleston, Chadwick BosemanMark Ruffalo tại sự kiện San Diego Comic-Con 2017.

Avengers: Cuộc chiến vô cực là một bộ phim điện ảnh đề tài siêu anh hùng của Mỹ năm 2018 dựa trên biệt đội siêu anh hùng Avengers của Marvel Comics. Phim do Marvel Studios sản xuất và Walt Disney Studios Motion Pictures chịu trách nhiệm phân phối, là phần phim tiếp theo của Biệt đội siêu anh hùng (2012) và Avengers: Đế chế Ultron (2015), đồng thời cũng là phim điện ảnh thứ 19 trong loạt phim điện ảnh thuộc Vũ trụ Điện ảnh Marvel (MCU). Tác phẩm do bộ đôi anh em Anthony và Joe Russo đạo diễn, với phần kịch bản được chắp bút bởi Christopher Markus và Stephen McFeely. Phim có sự tham gia của dàn diễn viên gồm Robert Downey Jr., Chris Hemsworth, Mark Ruffalo, Chris Evans, Scarlett Johansson, Benedict Cumberbatch, Don Cheadle, Tom Holland, Chadwick Boseman, Paul Bettany, Elizabeth Olsen, Anthony Mackie, Sebastian Stan, Danai Gurira, Letitia Wright, Dave Bautista, Zoe Saldana, Josh BrolinChris Pratt. Trong Avengers: Cuộc chiến vô cực, Biệt đội Avengers hợp tác với nhóm Vệ binh dải Ngân Hà để ngăn chặn Thanos khỏi việc thu thập đầy đủ 6 Viên đá Vô cực và hủy diệt một nửa số sinh vật trong vũ trụ.

Avengers: Cuộc chiến vô cực được công bố vào tháng 10 năm 2014 dưới tựa đề Avengers: Cuộc chiến vô cực – Phần 1. Tháng 4 năm 2015, anh em nhà Russo nhận lời ngồi vào ghế đạo diễn của phim; một tháng sau, bộ đôi Christopher Markus và Stephen McFeely ký hợp đồng mới dưới vai trò nhà biên kịch của phim, với phần cốt truyện lấy ý tưởng từ nguyên tác truyện tranh The Infinity Gauntlet của Jim Starlin xuất bản năm 1991 và Infinity của Jonathan Hickman xuất bản năm 2013. Năm 2016, Marvel rút ngắn tựa đề phim thành Avengers: Cuộc chiến vô cực. [ Đọc tiếp ]

Tuần 30

Dàn diễn viên của Mulholland Drive từ trái sang phải: Naomi Watts, David Lynch, Laura Elena Harring cùng Justin Theroux tại LHP Cannes 2001.
Dàn diễn viên của Mulholland Drive từ trái sang phải: Naomi Watts, David Lynch, Laura Elena Harring cùng Justin Theroux tại LHP Cannes 2001.

Con đường ảo mộng là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại neo-noir giật gân, tâm lý của MỹPháp ra mắt năm 2001, do David Lynch làm đạo diễn kiêm biên kịch. Với sự tham gia diễn xuất của dàn diễn viên nổi tiếng như Naomi Watts, Laura Harring, Justin Theroux, Ann Miller, Mark Pellegrino cùng Robert Forster, bộ phim theo chân nữ diễn viên giàu khát vọng Betty Elms trên con đường chinh phục ánh hào quang tại Los Angeles. Tại đây, cô gặp và kết bạn với một cô gái bị mất trí nhớ sau vụ tai nạn ô tô.

Lúc đầu, ý tưởng của các nhà làm phim là thai nghén một loạt phim truyền hình nhiều phần, mở đầu bằng một tập phim thí điểm. Phần lớn bộ phim bắt đầu được lên lịch quay từ năm 1999. Lynch dự định sẽ để ngỏ một kết thúc mở cho các phần phim tiềm năng sau này. Tuy nhiên, sau khi biết được kế hoạch của ông, những người chịu trách nhiệm sản xuất đã nhất mực từ chối, gián tiếp dẫn đến việc Lynch bỏ hẳn dự án và quyết định chuyển hướng bộ phim lên màn ảnh. Kết cục, một tác phẩm nhiều tầng ý nghĩa, mang nửa truyền hình, nửa điện ảnh, cộng với chất riêng của vị đạo diễn này ra đời. Lynch không muốn giải thích những điểm khó hiểu trong câu chuyện mà muốn để chính người xem, giới chuyên môn cũng như các thành viên trong đoàn làm phim tự suy đoán lấy. Ông chỉ gợi ý cho khán giả bằng một câu tagline duy nhất, theo đó, bộ phim là "một câu chuyện tình yêu trong thành phố của những giấc mơ". [ Đọc tiếp ]

Tuần 31

Ảnh chụp Thom Yorke, giọng ca chính của Radiohead.
Ảnh chụp Thom Yorke, giọng ca chính của Radiohead.

OK Computer là album phòng thu thứ ba của ban nhạc rock người Anh Radiohead, do hai hãng đĩa con của EMIParlophoneCapitol Records phát hành vào năm 1997. Đây là album tự sản xuất đầu tiên của ban nhạc với sự hỗ trợ của Nigel Godrich. Radiohead thu âm album tại OxfordshireBath suốt năm 1996 tới đầu năm 1997, và hầu hết các ca khúc được hoàn thiện tại điền trang lịch sử nổi tiếng St Catherine. Với album này, ban nhạc đã chủ động tách xa khỏi việc lạm dụng guitar, trong khi phần ca từ tiếp tục theo hơi hướng từ album trước đó của họ, The Bends. Thứ ca từ trừu tượng, những âm thanh giàu tính giai điệu và những triết lý của nó chính là định hướng âm nhạc của Radiohead sau này với nhiều tính trải nghiệm hơn.

OK Computer nhận được nhiều đánh giá rất tích cực và được thính giả cũng như nhiều ý kiến chuyên môn coi là album xuất sắc của thập niên 1990. Album cũng được đề cử Giải Grammy cho Album của năm và giành giải Album nhạc alternative xuất sắc nhất năm 1998. Album tách biệt hoàn toàn với thể loại Britpop đang rất đình đám vào thời điểm đó để hướng tới phong cách sầu não và sôi động hơn của alternative rock thống trị suốt thập niên tiếp theo. Giới chuyên môn và người hâm mộ dành nhiều bình luận về những chủ đề ẩn sau ca từ và phần bìa đĩa của album, ca ngợi quan điểm của Radiohead về chủ nghĩa tiêu dùng, sự tha hóa của xã hội, cảm giác bị cách li và những nỗi ám ảnh chính trị. Về những khía cạnh này, OK Computer thường được coi là tiên tri cho cuộc sống thế kỷ 21. [ Đọc tiếp ]

Tuần 32

Đạo diễn của phim, ông Denis Villeneuve.
Đạo diễn của phim, ông Denis Villeneuve.

Tội phạm nhân bản 2049 là một bộ phim điện ảnh đề tài khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 2017 do Denis Villeneuve đạo diễn và Hampton Fancher cùng Michael Green đảm nhiệm phần kịch bản. Đây là phần tiếp theo của bộ phim Blade Runner (1982), với Ryan GoslingHarrison Ford đảm nhiệm hai vai chính và Ana de Armas, Sylvia Hoeks, Robin Wright, Mackenzie Davis, Carla Juri, Lennie James, Dave Bautista cùng Jared Leto tham gia vào các vai phụ. Cả Ford lẫn Edward James Olmos đều quay trở lại với vai diễn của mình từ phần phim đầu tiên. Ridley Scott vốn là đạo diễn ban đầu của tác phẩm, tuy nhiên sau này trong dự án ông lại làm việc dưới vai trò giám đốc sản xuất. Lấy bối cảnh ba mươi năm sau mốc thời gian trong nguyên tác Blade Runner, câu chuyện của Tội phạm nhân bản 2049 xoay quanh việc K, một người nhân bản thế hệ Nexus-9 và đồng thời cũng là một "blade runner", đã tình cờ phát hiện bí mật gây chấn động: một người nhân bản đời cũ từng có thai và đã qua đời khi sinh con. Để che giấu bí mật có thể dẫn đến chiến tranh giữa con người và người nhân bản, cấp trên buộc K phải tìm ra đứa trẻ và thủ tiêu tất cả các bằng chứng liên quan đến nó.

Ý tưởng cho phần phim tiếp nối của Blade Runner bắt đầu được nhen nhóm từ những năm 1990, tuy nhiên các vấn đề về bản quyền đã khiến cho việc phát triển ý tưởng bị đình trệ. Sau đó với mục tiêu tăng lợi nhuận cho hãng phim của mình, Andrew Kosove và Broderick Johnson đã đàm phán và sở hữu được bản quyền tác phẩm từ phía Bud Yorkin. Quá trình quay phim chính được thực hiện chủ yếu tại hai phim trường ở thành phố Budapest, Hungary trong khoảng thời gian hơn bốn tháng—từ tháng 7 tới tháng 11 năm 2016. Tội phạm nhân bản 2049 được hỗ trợ tài chính bởi liên danh Alcon Entertainment–Sony Pictures và chính sách miễn giảm thuế do chính phủ Hungary tài trợ. Hãng Warner Bros. đại diện cho Alcon phụ trách công tác phân phối tác phẩm tại thị trường Bắc Mỹ, còn Sony đảm nhiệm vai trò phân phối tại các thị trường quốc tế. [ Đọc tiếp ]

Tuần 33

Một bức tượng đặt bên ngoài sân vận động Cardiff City mô tả đội trưởng câu lạc bộ Cardiff City, Fred Keenor đang giương cao chiếc Cúp FA.
Một bức tượng đặt bên ngoài sân vận động Cardiff City mô tả đội trưởng câu lạc bộ Cardiff City, Fred Keenor đang giương cao chiếc Cúp FA.

Chung kết Cúp FA 1927 là một trận thi đấu bóng đá giữa hai câu lạc bộ Cardiff CityArsenal trong khuôn khổ Cúp FA do Hiệp hội bóng đá Anh tổ chức, diễn ra vào ngày 23 tháng 4 năm 1927 tại Sân vận động Empire (Sân vận động Wembley cũ). Trận đấu khép lại với chiến thắng tối thiểu 1–0 dành cho Cardiff City, qua đó giúp đội bóng đến từ xứ Wales này trở thành nhà vô địch đầu tiên bên ngoài nước Anh. Tính đến năm 2020, chức vô địch của Cadiff vẫn là lần duy nhất mà chiếc cúp (trước đây thường gọi là "Cúp Anh") được trao cho một câu lạc bộ có trụ sở bên ngoài nước này.

Hai đội cùng tham gia giải đấu ở lượt trận thứ thứ ba với tư cách là đại diện của Football League First Division và đều trải qua năm vòng để tiến vào chung kết. Tại lượt trận thứ năm, Cadiff hạ gục Bolton Wanderers để chính thức biến đội bóng này thành cựu vương. Cho đến vòng tứ kết, Arsenal và Cardiff là hai đội bóng duy nhất của First Division còn sót lại.

Vào ngày diễn ra trận chung kết, ban tổ chức đã bổ sung thêm một số đoàn tàu nhằm vận chuyển người hâm mộ của Cardiff đến sân theo dõi trận đấu. Số lượng cảnh sát được huy động tối đa nhằm ngăn chặn những người dùng vé giả vào sân. Trước khi trận đấu diễn ra, ban tổ chức đã tiến hành một buổi lễ long trọng có sự trình diễn của ca khúc "Abide with Me", bài hát sau này trở thành truyền thống trong các trận chung kết. Đây cũng là lần đầu tiên, một trận chung kết được truyền hình trực tiếp trên đài phát thanh của BBC. Có nhiều thông tin cho rằng chương trình phát sóng này là nguồn gốc của cụm từ "back to square one", mặc dù từ ngữ này xuất hiện trước khi trận đấu diễn ra. Hơn 91.206 người đã đến sân theo dõi trực tiếp trận đấu, bên cạnh đó là hơn 15.000 cổ động viên Cardiff có mặt tại Cathays Park, trung tâm hành chính thành phố để theo dõi đội bóng con cưng qua hệ thống phát thanh. [ Đọc tiếp ]

Tuần 34

Cảng Sài Gòn 0–2 Tổng cục Đường sắt (1976), được biết đến với tên gọi Trận cầu đoàn tụ (ở Việt Nam) hay Trận cầu thống nhất (theo cách gọi của báo chí nước ngoài), là một trận giao hữu bóng đá diễn ra ngày 7 tháng 11 năm 1976 giữa Cảng Sài GònTổng cục Đường sắt trên sân vận động Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là trận đấu đầu tiên giữa hai đội bóng đến từ hai miền Nam, Bắc của Việt Nam sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.

Cảng Sài Gòn có tên gọi cũ là Đội bóng đá Tổng nha Thương cảng. Đội hình của họ bao gồm nhiều cầu thủ từng thuộc biên chế Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam Cộng hòa tham dự các giải đấu quốc tế. Trong khi đó, Tổng cục Đường sắt, đội bóng đại diện cho lớp công nhân ngành đường sắt, vừa mới giành chức vô địch giải bóng đá Công đoàn miền Bắc. Trận đấu diễn ra trong bối cảnh sau khi sân vận động Cộng Hòa được đổi tên thành sân vận động Thống Nhất và cuộc bỏ phiếu bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất vừa diễn ra trước đó vài tháng. Tổng cục Thể dục thể thao Việt Nam cử đại diện là Đội bóng đá Tổng cục Đường sắt vào miền Nam tham gia loạt trận giao hữu với nhiệm vụ hàn gắn nền bóng đá hai miền sau nhiều năm chiến tranh. [ Đọc tiếp ]

Tuần 35

Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại nằm ở Đông Bắc châu Phi, tập trung dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực ngày nay là đất nước Ai Cập. Đây là một trong sáu nền văn minh phát sinh một cách độc lập trên thế giới. Nền văn minh Ai Cập được thống nhất lại vào năm 3150 TCN với sự thống nhất chính trị của ThượngHạ Ai Cập dưới thời vị pharaon đầu tiên. Lịch sử của Ai Cập cổ đại đã trải qua một loạt các thời kỳ vương quốc ổn định, và các giai đoạn hỗn loạn giữa chúng được gọi là các giai đoạn chuyển tiếp: Cổ Vương quốc tương ứng giai đoạn Sơ kỳ Đồ đồng, Trung Vương quốc tương ứng Trung kỳ Đồ ĐồngTân Vương quốc ứng với Hậu kỳ Đồ đồng. Ai Cập đạt đến đỉnh cao của quyền lực vào giai đoạn Tân Vương quốc, trong thời kỳ Ramesside, trước khi bước vào giai đoạn dần suy yếu và rơi vào tay đế quốc La Mã, trở thành một tỉnh La Mã dưới thời nữ hoàng Cleopatra VII. Những thành tựu của người Ai Cập cổ đại bao gồm khai thác đá, khảo sát và kỹ thuật xây dựng hỗ trợ cho việc xây dựng các công trình kim tự tháp, đền thờ, và cột tháp tưởng niệm; một hệ thống toán học, một hệ thống thực hành y học hiệu quả, hệ thống thủy lợi và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, những tàu thủy đầu tiên được biết đến trên thế giới, công nghệ gốm sứ và thủy tinh của Ai Cập, những thể loại văn học mới, và các hiệp ước hòa bình được biết đến sớm nhất. Ai Cập đã để lại một di sản lâu dài. [ Đọc tiếp ]

Tuần 36

Xưởng phim 1 của Kyōto Animation sau vụ phóng hỏa.
Xưởng phim 1 của Kyōto Animation sau vụ phóng hỏa.

Vụ phóng hỏa Kyōto Animation xảy ra ở tòa nhà Xưởng phim 1 của Kyōto Animation tọa lạc tại quận Fushimi, thành phố Kyōto, tỉnh Kyōto, Nhật Bản, vào sáng ngày 18 tháng 7 năm 2019. Vụ đốt phá đã làm ít nhất 36 người thiệt mạng, 34 người bị thương và phá hủy phần lớn tài liệu và máy tính ở Xưởng phim 1. Đây là một trong những vụ thảm sát kinh hoàng nhất ở Nhật Bản kể từ cuối Thế Chiến II và là vụ cháy tòa nhà nguy hiểm nhất ở Nhật Bản kể từ Vụ cháy toà nhà Myojo 56 vào năm 2001. Vụ việc được một giáo sư chuyên ngành tội phạm tại Đại học Rissho ví như một vụ "khủng bố tự sát", bởi động cơ gây án của nghi phạm là để tự tử.

Thủ phạm là Aoba Shinji, người vốn không phải nhân viên xưởng phim; y bước vào cửa trước rồi đổ xăng vào toà nhà và một số nhân viên trước khi châm lửa, khiến tòa nhà bốc cháy. Sau khi tự châm lửa đốt mình, hung thủ cố gắng bỏ trốn khỏi hiện trường, nhưng bị cảnh sát bắt giữ tại một nơi cách toà nhà 100 mét (330 ft). Các nhân chứng cho biết họ nghe thấy y cáo buộc xưởng phim đạo văn. Cảnh sát đã bắt giữ Aoba bởi nghi ngờ y đã giết người cũng như thực hiện các hành vi phạm tội khác, sau khi đợi y hồi phục các vết bỏng nặng nguy hiểm đến tính mạng trong hơn 10 tháng. [ Đọc tiếp ]

Tuần 37

Hai trang của "Ly tao" xuất bản năm 1645, có bao gồm cả hình minh họa. Trong ấn bản này, tiêu đề của bài thơ là Ly tao kinh.
Hai trang của "Ly tao" xuất bản năm 1645, có bao gồm cả hình minh họa. Trong ấn bản này, tiêu đề của bài thơ là Ly tao kinh.

"Ly tao" là một bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc thuộc thể loại phú do chính trị gia, thi nhân nước SởKhuất Nguyên sáng tác vào thời Chiến Quốc. Là thiên "trường ca" đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc, và với tổng cộng 2.477 chữ, chia thành 373 câu, "Ly tao" được đánh giá là bài thơ nổi tiếng và xuất sắc nhất trong tuyển tập thi ca Sở từ. Sự đặc sắc của bài thơ trường thiên này là lời bi thảm triền miên, thường dùng lối tượng trưng, lối nhân cách hóa và dẫn rất nhiều điển cố thần thoại Trung Hoa. Chủ đề và phong cách của nó được các tác gia từ phú bắt chước và phát triển thành thể loại sĩ bất ngộ vào đời nhà Hán, là một tác phẩm tiêu biểu của văn học lãng mạn Trung Quốc đồng thời nắm giữ một địa vị cao quý trong nền văn học nước này.

Trong "Ly tao", tác giả Khuất Nguyên tự thuật về thân thế, tài hoa cùng chí hướng của bản thân, chỉ trích những kẻ mà ông gọi là tiểu nhân, thể hiện tâm trạng bi phẫn vì bị quân vương xa lánh, nhưng cũng đồng thời khẳng định rằng ông thà cố chấp chọn cái tốt, thà chết chứ quyết không thông đồng với kẻ gian. Tác phẩm chứa nhiều yếu tố huyền bí, Khuất Nguyên đề cập đến việc ông đã nói chuyện cùng thần linh, hỏi chuyện các đồng cốt vì ông do dự không thể quyết định giữa lựa chọn "ra đi" hay "ở lại". Ông tưởng tượng rằng mình đã lên thiên giới, điều khiển "xe phi long" bằng ngọc, chu du tứ phương, nhưng khi tới thiên môn thì không thể đi tiếp, còn lời cầu hôn của ông cũng bị thần nữ cự tuyệt. Cuối cùng, ông cũng vì không đành lòng rời khỏi cố hương mà quyết định ở lại. [ Đọc tiếp ]

Tuần 38

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, lãnh đạo tối cao de facto tại Việt Nam khi biểu tình Thái Bình 1997 diễn ra.
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, lãnh đạo tối cao de facto tại Việt Nam khi biểu tình Thái Bình 1997 diễn ra.

Biểu tình Thái Bình 1997 là một cuộc biểu tình của 43.000 nông dân dưới sự lãnh đạo của nhóm cựu chiến binh – công chứcĐảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hưu trí tỉnh Thái Bình thuộc Việt Nam, diễn ra vào khoảng tháng 4–8 năm 1997. Biểu tình Thái Bình năm 1997 với mục tiêu cáo buộc công chức địa phương tham nhũng, vi phạm dân chủcông bằng xã hội, chủ nghĩa thân hữu. Tỉnh ủy Thái Bình khi đó cáo buộc "địch phá hoại, cán bộ hưu trí bất mãn chống đối", đồng thời đề nghị Công an nhân dân Việt NamQuân đội nhân dân Việt Nam thực hiện trấn áp biểu tình tại Thái Bình. Đề nghị của chính quyền địa phương bị bác bỏ khi những sai phạm nghiêm trọng bị phát hiện, hơn 2.000 công chức bị xử lý và hơn 70% tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam tại Thái Bình bị thay thế, Quy chế dân chủ cơ sở chính thức được thực thi trong phạm vi toàn quốc gia. Kể từ sau sự kiện, mỗi năm ít nhất một lần đều có một nhóm thị sát nghiên cứu về biến đổi xã hội tại Thái Bình trong khoảng 10 năm. Giai đoạn bất ổn 1997–1999 khiến kinh tế Thái Bình bị kéo tụt 10 năm phát triển. [ Đọc tiếp ]

Tuần 39

Phêrô Nguyễn Văn Khảm giảng lẽ trong lễ nhậm chức Tân GM
Phêrô Nguyễn Văn Khảm giảng lẽ trong lễ nhậm chức Tân GM

Phêrô Nguyễn Văn Khảm là một giám mục Công giáo người Việt. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Mỹ Tho và Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam, nhiệm kỳ 2019–2022. Khẩu hiệu giám mục của ông là "Hãy theo Thầy". Ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, ông còn có khả năng giao tiếp bằng tiếng Anhtiếng Pháp. Ông được đánh giá là một giáo sĩ có tài thuyết giảng.

Giám mục Khảm sinh tại Hà Đông, sau đó di cư vào Nam cùng gia đình vào năm 1954. Sau khoảng thời gian dài tu học tại nhiều chủng viện khác nhau trong Giáo tỉnh Sài Gòn, ông được phong chức linh mục năm 1980. Sau đó, ông lần lượt giữ các chức vụ như linh mục phó xứ Hà Đông, quản nhiệm xứ Hà Nội, phó xứ Đức Bà Sài Gòn và giáo sư Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn. Linh mục Nguyễn Văn Khảm được cử du học Hoa Kỳ, sau đó trở về Việt Nam làm Giám đốc Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Văn Khảm được tấn phong giám mục tháng 11 năm 2008, một tháng sau khi tin bổ nhiệm ông làm giám mục phụ tá Thành phố Hồ Chí Minh được công bố. Trong thời kỳ này, ông cũng kiêm nhiệm các vai trò khác trong Hội đồng Giám mục Việt Nam như Chủ tịch Ủy ban Truyền thông Xã hội (2010–2013), Phó Tổng thư ký (2010–2016). [ Đọc tiếp ]

Tuần 40

Hình minh họa SARS-CoV-2 dưới dạng virion, một hạt virus có cấu trúc hoàn chỉnh.
Hình minh họa SARS-CoV-2 dưới dạng virion, một hạt virus có cấu trúc hoàn chỉnh.

Virus là một tác nhân truyền nhiễm có kích thước vô cùng nhỏ bé, có khả năng sinh sản ở bên trong các tế bào vật chủ sống. Khi bị nhiễm bệnh, tế bào chủ bị ép phải nhanh chóng sản sinh ra hàng ngàn bản sao giống hệt cấu trúc virus ban đầu. Không giống như hầu hết các sinh vật sống, virus không phải là tế bào, do đó không thể tự phân chia mà phải phụ thuộc vào tế bào chủ nhiễm bệnh. Nhưng không giống như các tác nhân truyền nhiễm có cấu trúc đơn giản hơn (chẳng hạn như prion - thể đạm độc), virus chứa gen. Đây là bộ máy di truyền cho phép chúng biến đổi và tiến hóa. Trong số hàng triệu loài virus tồn tại ở môi trường xung quanh chúng ta, có hơn 4800 loài đã được mô tả chi tiết. Nguồn gốc hình thành virus chưa thực sự rõ ràng: một số virus có thể đã tiến hóa từ plasmid (mảnh DNA có khả năng di chuyển và thâm nhập giữa các tế bào), trong khi một số virus khác có thể đã tiến hóa từ vi khuẩn.

Virus có cấu tạo gồm 2 đến 3 phần. Cấu trúc cơ bản nhất là bộ gen. Đó là những vật chất chứa thông tin sinh học được mã hóa dưới dạng phân tử DNA hoặc RNA. Cấu trúc cơ bản thứ hai là lớp vỏ protein bọc bên ngoài virus để bảo vệ bộ gen bên trong. Một số virus cũng có thể có một màng bọc (một số sách viết là envelope) chứa chất giống chất béo, lớp màng này bao phủ lớp vỏ protein và dễ bị hư hại khi gặp xà phòng. [ Đọc tiếp ]

Tuần 41

Đoàn làm phim Đập cánh giữa không trung từ trái sang phải: diễn viên Thanh Duy, Trần Bảo Sơn, Nguyễn Thùy Anh, Hoàng Hà và đạo diễn Nguyễn Hoàng Điệp.
Đoàn làm phim Đập cánh giữa không trung từ trái sang phải: diễn viên Thanh Duy, Trần Bảo Sơn, Nguyễn Thùy Anh, Hoàng Hà và đạo diễn Nguyễn Hoàng Điệp.

Đập cánh giữa không trung là một bộ phim điện ảnh độc lập thuộc thể loại tâm lý xã hội, tuổi mới lớn của Việt Nam, Đức, Na UyPháp do Nguyễn Hoàng Điệp viết kịch bản kiêm đạo diễn. Với sự tham gia diễn xuất của Trần Bảo Sơn, Phạm Trần Thanh Duy, Nguyễn Thùy Anh, Hoàng Hà, phim kể về hành trình của một cô sinh viên Hà Nội sau khi phát hiện ra mình đã có thai và mối quan hệ của cô với những người xung quanh.

Lấy cảm hứng từ trải nghiệm của chính bản thân, Nguyễn Hoàng Điệp khởi động dự án điện ảnh đầu tay mang tên "Đập cánh", hợp tác với Phan Đăng Di và Đỗ Thị Hải Yến. Sau khi thất bại trong việc tìm nguồn hỗ trợ tài chính tại Việt Nam, cô tìm đến Liên hoan phim Cannes, mang theo một bộ phim ngắn, đính kèm hồ sơ của dự án mới với kỳ vọng nhận được sự đầu tư. Vì đòi hỏi khó khăn ban đầu, dự án bị gắn mác "kế hoạch mộng mơ" trước khi nhận được đủ nguồn lực tài chính cần thiết từ các quỹ điện ảnh. "Đập cánh" được ba nhà sản xuất phim quốc tế đến từ Pháp, Na Uy, Đức ngỏ lời hỗ trợ tham gia. Phim khởi quay mùa hè năm 2013 và kết thúc giai đoạn hậu kỳ tại Pháp một năm sau đó.

Đập cánh giữa không trung ra mắt công chúng lần đầu tại Liên hoan phim Venezia 2014 và giành giải thưởng "Phim hay nhất" của Liên đoàn các nhà phê bình phim châu Âu và Địa Trung Hải (FEDEORA). Tác phẩm cũng giúp Nguyễn Hoàng Điệp gặt hái giải thưởng "Đạo diễn xuất sắc" tại Liên hoan phim Quốc tế Bratislava 2014, đồng thời giúp Thanh Duy giành giải "Nam diễn viên phụ xuất sắc" tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19. [ Đọc tiếp ]

Tuần 42

Tòa nhà Quốc hội Việt Nam
Tòa nhà Quốc hội Việt Nam

Tòa nhà Quốc hội Việt Nam là trụ sở làm việc và nơi diễn ra các phiên họp toàn thể của Quốc hội Việt Nam. Nhà Quốc hội được khởi công xây dựng vào năm 2009 tại khu trung tâm chính trị Ba Đình. Tòa nhà tọa lạc trên đường Độc Lập, nhìn ra Quảng trường Ba Đình, đối diện với Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và nằm cạnh khu di tích khảo cổ 18 Hoàng Diệu. Tòa nhà là công trình công sở có quy mô lớn và phức tạp nhất được xây dựng tại Việt Nam từ sau ngày thống nhất đất nước với kiến trúc hiện đại tích hợp các giải pháp ứng dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến phức tạp.

Công trình Nhà Quốc hội mất 15 năm (1999–2014) từ khi phôi thai ý tưởng cho đến lúc khánh thành đã tạo ra vô vàn tranh luận trong xã hội cũng như các phương tiện thông tin đại chúng từ vị trí xây dựng, bảo tồn di tích đến phương án kiến trúc. Việc xây dựng Nhà Quốc hội cũng dẫn đến cuộc khai quật khảo cổ lớn nhất tại Việt Nam ở địa chỉ 18 Hoàng Diệu. Công ty tư vấn kiến trúc gmp International GmbH của Đức đã nhận Giải thưởng Lớn – giải thưởng cao nhất trong Giải thưởng Kiến trúc Quốc gia năm 2014 của Hội Kiến trúc sư Việt Nam cho công trình Nhà Quốc hội. [ Đọc tiếp ]

Tuần 43

Hình vẽ Guy Fawkes trên một bản khắc đương thời của Crispijn van de Passe

Guy Fawkes (1570–1606), cũng được biết đến với cái tên Guido Fawkes khi chiến đấu cùng với người Tây Ban Nha, là một thành viên của Giáo hội Công giáo ở địa phương và là người đã lên kế hoạch cho Âm mưu thuốc súng bất thành năm 1605. Guy Fawkes sinh ra và được giáo dục tại York; bố ông đã mất khi Fawkes mới tám tuổi, sau đó mẹ ông kết hôn với một người Công giáo chống lại Anh giáo.

Fawkes đã cải sang đạo Công giáo và đi đến lục địa Châu Âu để chiến đấu cho Công giáo Tây Ban Nha trong cuộc Chiến tranh Tám Mươi Năm chống lại nhóm cải cách Tin lành Hà Lan ở miền đất Hạ. Ông đến Tây Ban Nha nhằm tìm kiếm sự hỗ trợ cho cuộc nổi loạn ủng hộ Công giáo ở Anh, nhưng không thành công. Sau đó ông gặp Thomas Wintour và cùng nhau quay trở lại Anh. Wintour đã giới thiệu Fawkes với Robert Catesby, người đã lên kế hoạch ám sát Vua James I để khôi phục quốc vương theo Công giáo. Những người lập mưu đã thuê một căn hầm dưới Viện Quý tộc; cũng là chỗ Fawkes được giao nhiệm vụ bảo vệ kho thuốc súng. Nhờ một lá thư nặc danh, chính quyền đã lục soát Cung điện Westminster vào rạng sáng ngày 5 tháng 11 và họ phát hiện Fawkes đang bảo vệ chất nổ. Ông đã bị thẩm vấn và tra tấn trong nhiều ngày tiếp theo. Cuối cùng, Fawkes thú nhận ý định muốn làm nổ tung Viện Quý tộc.

Ngay trước khi bị hành hình vào ngày 31 tháng 1, Fawkes nhảy từ giàn giáo (nơi ông bị treo cổ) xuống và bị gãy cổ nên đã tránh được sự đau đớn khi bị treo, kéo lê lết và phân thành bốn. Fawkes trở thành biểu tượng của Âm mưu thuốc súng, và kể từ ngày 5 tháng 11 năm 1605, sự thất bại của âm mưu này được tưởng niệm ở Anh trong đêm Guy Fawkes với truyền thống là hình nộm của Fawkes bị hỏa thiêu và thường đi kèm với pháo hoa.. [ Đọc tiếp ]

Tuần 44

Thánh Giá Mathilde, chiếc thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Nữ Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ.
Thánh Giá Mathilde, chiếc thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Nữ Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ.

Thời kỳ Trung Cổ là giai đoạn trong lịch sử châu Âu bắt đầu từ sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mãthế kỷ 5, kéo dài tới cuối thế kỷ 15, hòa vào thời Phục HưngThời đại Khám phá. Trung Cổ là thời đại thứ hai trong ba thời đại lịch sử theo cách phân kỳ truyền thống của lịch sử phương Tây, cùng với Cổ đại và Hiện đại. Trung Cổ (Trung Đại) được chia thành ba giai đoạn là Sơ kỳ Trung Cổ, Trung kỳ Trung Cổ, và Hậu kỳ Trung Cổ. Suy giảm dân số, sự đảo ngược đô thị hóa, xâm lược, và di dân, bắt đầu từ hậu kỳ cổ đại, tiếp diễn trong thời Sơ kỳ Trung Cổ. Những man tộc xâm lược, gồm các sắc tộc German, lập nên những vương quốc mới trên tàn tích của Đế quốc Tây La Mã. Bắc Phi, Trung Đông, và Iberia rơi vào tay người Hồi giáo, tuy Đế quốc Đông La Mã (tức Byzantine) vẫn duy trì vai trò một cường quốc quan trọng ở Đông Địa Trung Hải. Quá trình truyền bá Kitô giáo vẫn tiếp tục, các đan viện tu trì nở rộ. Người Frank, dưới thời Nhà Carolus, cai trị Đế quốc Carolus trong thế kỷ 9.

Bước sang Trung kỳ Trung Cổ từ những năm 1000, dân số châu Âu tăng mạnh với những cải tiến về kỹ thuật và nông nghiệp trong cấu trúc kinh tế chính trị của chế độ trang viên và chế độ phong kiến. Thập tự chinh được kêu gọi để giành lại Đất Thánh. Đời sống trí thức nở rộ với chủ nghĩa kinh viện kết hợp đức tin và lý trí, cùng sự thành lập các viện đại học. Những thành tựu khác còn bao gồm thần học của Tôma Aquinô, thi ca của DanteChaucer, và kiến trúc Gothic của các nhà thờ chính tòa vươn cao. Hậu kỳ Trung Cổ gắn với những tai ương như Cái Chết Đen, nạn đói kém, các cuộc chiến tranh và xung đột trước khi những chuyển biến văn hóa, kỹ thuật sẽ thay đổi xã hội châu Âu và bắt đầu thời cận đại. [ Đọc tiếp ]

Tuần 45

Bộ xương Acrocanthosaurus (NCSM 14345) tại Bảo tàng Khoa học Tự nhiên North Carolina
Bộ xương Acrocanthosaurus (NCSM 14345) tại Bảo tàng Khoa học Tự nhiên North Carolina

Acrocanthosaurus ("thằn lằn gai sống cao") là một chi khủng long chân thú từng tồn tại ở khu vực ngày nay là Bắc Mỹ vào tầng Apt và giai đoạn đầu của tầng Alba thuộc kỷ Phấn Trắng. Giống như hầu hết các chi khủng long khác, Acrocanthosaurus chỉ có một loài duy nhất: A. atokensis. Phần lớn các hóa thạch của chi này được tìm thấy ở tiểu bang Oklahoma, Texas, Wyoming; tuy nhiên, đã phát hiện một số răng về phía đông xa tận Maryland, ám chỉ một vùng phân bố rộng khắp châu lục.

Acrocanthosaurusđộng vật ăn thịt hai chân. Như tên "thằn lằn gai sống cao" cho thấy, nó được biết đến với những gai thần kinh cao trên các đốt sống, mà rất có thể được dùng để nâng đỡ một dãy bướu thịt trên lưng, cổ và hông. Acrocanthosaurus là một trong những loài khủng long chân thú lớn nhất, có thể dài tới 11,5 m (38 ft) và nặng đến 6,2 tấn (6,8 tấn Mỹ). Những dấu chân lớn của khủng long chân thú tại Texas rất có thể là của chi này, mặc dù không có mối liên hệ trực tiếp nào với hóa thạch xương ở đó.

Khám phá gần đây đã làm sáng tỏ thêm nhiều chi tiết về giải phẫu học, cho phép nghiên cứu chuyên ngành tập trung vào cấu trúc não bộ và chức năng chi trước. Acrocanthosauruskhủng long chân thú lớn nhất trong hệ sinh thái của nó lúc bấy giờ và rất có thể là một động vật ăn thịt đầu bảng. Nó có thể săn các khủng long chân thằn lằn, khủng long chân chimgiáp long lớn. [ Đọc tiếp ]

Tuần 46

Xoắn ốc ADN
Xoắn ốc ADN

Axit đeoxiribonucleic (viết tắt là ADN theo tiếng Pháp hoặc DNA theo tiếng Anh) là phân tử mang thông tin di truyền mã hóa cho hoạt động sinh trưởng, phát triển, chuyên hóa chức năng và sinh sản của các sinh vật và nhiều loài virus. DNA và RNA là những axit nucleic; cùng với protein, lipid và những cacbohydrat cao phân tử (polysaccharide), chúng là một trong bốn loại đại phân tử chính có vai trò quan trọng thiết yếu đối với mọi dạng sống được biết đến. Phần lớn các phân tử DNA được cấu tạo từ hai mạch polyme sinh học xoắn đều quanh một trục tưởng tượng tạo thành chuỗi xoắn kép axit nucleic, với thành phần bao gồm các đơn phân nucleotide. Các nucleotide liên kết với nhau thành một mạch DNA bằng liên kết cộng hóa trị tạo thành "khung xương sống" đường-phosphat luân phiên vững chắc. DNA ở tế bào nhân thực (động vật, thực vật, nấmnguyên sinh vật) được lưu trữ bên trong nhân tế bào và một số bào quan, như ty thể hoặc lục lạp; và ở sinh vật nhân sơ (vi khuẩnvi khuẩn cổ), DNA nằm trong tế bào chất. DNA lưu trữ thông tin sinh học, các mã di truyền đến các thế hệ tiếp theo và để chỉ dẫn cho quá trình sinh tổng hợp protein trong di truyền học. DNA cũng trở thành một công cụ phân tử giúp các nhà nghiên cứu khám phá các lý thuyết và định luật vật lý sinh học, và trong khoa học vật liệu như công nghệ nano DNA. [ Đọc tiếp ]

Tuần 47

Logarit của một số là lũy thừa mà một giá trị cố định, gọi là cơ số, phải được nâng lên để tạo ra số đó. Ví dụ, logarit cơ số 10 của 1000 là 3 vì 1000 là 10 lũy thừa 3: 1000 = 10 × 10 × 10 = 103. Tổng quát hơn, nếu x = by thì y được gọi là logarit cơ số b của x và được ký hiệu là logbx.

Logarit do John Napier giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1614 như là một cách để đơn giản hóa việc tính toán. Về sau, nó đã nhanh chóng được nhiều nhà khoa học sử dụng để hỗ trợ trong tính toán, đặc biệt là các phép tính yêu cầu độ chính xác cao, thông qua thước loga và bảng logarit. Các công cụ này dựa trên tính chất rằng logarit của một tích bằng tổng các logarit của các thừa số.

Khái niệm logarit như ngày nay đến từ Leonhard Euler, người đã liên hệ nó với hàm mũ vào thế kỷ 18.Logarit cơ số 10 (b = 10) được gọi là logarit thập phân và có nhiều ứng dụng trong khoa họckỹ thuật. Logarit tự nhiên có cơ số là hằng số e (b ≈ 2,718) và được ứng dụng phổ biến nhất trong toán học và vật lý, đặc biệt là vi tích phân. Logarit nhị phân sử dụng cơ số 2 (b = 2) và được sử dụng nhiều nhất trong khoa học máy tính. [ Đọc tiếp ]

Tuần 48

Mật mã Caesar là một trong những kỹ thuật mã hóa đơn giản và phổ biến nhất. Đây là một dạng mật mã thay thế, trong đó mỗi ký tự trên văn bản thô sẽ được thay bằng một ký tự khác, có vị trí cách nó một khoảng xác định trong bảng chữ cái. Ví dụ với độ dịch chuyển là 3, D sẽ trở thành A, E sẽ trở thành B, v.v. Tên của kỹ thuật mã hóa này được đặt theo tên của Julius Caesar, người đã sử dụng nó trong các thư từ bí mật của mình.

Bước mã hóa được thực hiện trong mật mã Caesar thường được kết hợp như một phần của các dạng mã hóa phức tạp hơn, chẳng hạn như mật mã Vigenère, và hiện nay vẫn được áp dụng cho mã hóa ROT13. Cũng giống như tất cả các dạng mật mã thay thế một bảng chữ cái khác, mật mã Caesar rất dễ bị phá giải và về cơ bản không đáp ứng đủ khả năng bảo mật thông tin liên lạc trong thực tế hiện đại. [ Đọc tiếp ]

Tuần 49

Chim đớp ruồi đỏ son (danh pháp khoa học: Pyrocephalus obscurus) là một loài chim thuộc bộ Sẻ trong họ Đớp ruồi bạo chúa được tìm thấy trên khắp Nam Mỹ và miền Nam Bắc Mỹ. Màu đỏ son là một đặc điểm giúp chúng trở nên nổi bật so với những loài cùng họ. Chim trống có đỉnh đầu, ngực cùng phần bụng đỏ tươi với cánh và đuôi màu nâu; trong khi chim mái có màu nâu sẫm. Khi hót, chim đớp ruồi đỏ son phát ra âm thanh pit pit pit pi-trờ-ờ-ờ-iiii-trờ-ờ-ờ. Âm thanh này thường có giai điệu khác nhau, đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập lãnh thổ riêng. Loài chim này ăn côn trùng và săn mồi ngay trong khi đang bay. Quá trình thay lông thường bắt đầu vào mùa hạ, diễn ra trong vài tháng. Tuy là loài đơn phối ngẫu, nhưng thỉnh thoảng chúng còn tham gia giao phối ngoại đôi, thậm chí ký sinh nuôi dưỡng. Thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 3 đến tháng 6. Trong thời gian này, con trống sẽ đảm nhiệm việc nuôi và chăm con mái.

Loài này được mô tả lần đầu tiên vào cuối những năm 1830 trong các chuyến thám hiểm của Charles Darwin. Năm 2016, các nhà khoa học thay đổi nguyên tắc phân loại chi Pyrocephalus, tách một số phân loài của chim đớp ruồi đỏ son thành những loài riêng biệt, trong đó có cả chim đớp ruồi San Cristóbal vốn không còn tồn tại. Do số lượng cá thể vẫn còn dao động từ vài triệu đến vài chục triệu nên Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế coi chim đớp ruồi đỏ son là một loài ít được quan tâm, bất chấp con số này đang dần suy giảm do tác động của việc mất môi trường sống. [ Đọc tiếp ]

Tuần 50

Hai diễn viên chính Hammer và Chalamet trong buổi họp báo cho Call Me by Your Name tại Liên hoan phim quốc tế Berlin 2017.

Call Me by Your Name là một bộ phim tình cảm, chính kịch, tuổi mới lớn năm 2017 do Luca Guadagnino đạo diễn và James Ivory chắp bút, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên xuất bản năm 2007 của tác giả André Aciman. Đây là tác phẩm cuối cùng trong bộ ba mang tên "Desire" của đạo diễn Luca Guadagnino, sau I Am Love (2009) và A Bigger Splash (2015). Lấy bối cảnh tại vùng nông thôn miền Bắc nước Ý năm 1983, Call Me by Your Name tập trung khai thác mối quan hệ lãng mạn giữa cậu thiếu niên 17 tuổi Elio Perlman (Timothée Chalamet) và sinh viên 24 tuổi người Mỹ, Oliver (Armie Hammer), trợ lí thực tập cho cha của Elio (Michael Stuhlbarg), một giáo sư khảo cổ học.

Call Me by Your Name bắt đầu được phát triển từ năm 2007, khi hai nhà sản xuất là Peter Spears và Howard Rosenman đã lựa chọn chuyển thể cuốn tiểu thuyết của Aciman lên màn ảnh. Ivory được chỉ định trở thành đồng đạo diễn, nhưng tới năm 2016 ông quyết định từ bỏ vai trò này để Guadagnino, người trước đó vốn giữ vai trò cố vấn, chỉ đạo bộ phim thay mình. Bộ phim đón nhận tài trợ từ một số các công ty quốc tế và ghi hình tại Crema, Lombardia, Ý vào tháng 5 và tháng 6 năm 2016. Đích thân đạo diễn Guadagnino chọn lựa âm nhạc cho phim, trong đó có hai ca khúc gốc được sáng tác và trình bày bởi ca sĩ-sáng tác nhạc người Mỹ, Sufjan Stevens. [ Đọc tiếp ]

Tuần 51

Ted Bundy vào tháng 7 năm 1978

Ted Bundy là một kẻ giết người hàng loạt người Mỹ, đã bắt cóc, hãm hiếp và sát hại nhiều phụ nữ cũng như trẻ em gái trong giai đoạn những năm 1970, thậm chí trước đó nữa. Sau hơn một thập kỷ chối tội, trước khi bị hành quyết vào năm 1989, anh đã thú nhận mình là thủ phạm của 30 vụ giết người tại 7 bang từ năm 1974 đến năm 1978. Số nạn nhân thực sự vẫn là điều bí ẩn và có thể còn cao hơn con số 30.

Bundy được đánh giá là một người đẹp trai và lôi cuốn. Đây cũng là những điểm mà anh tận dụng nhằm chiếm lòng tin của các nạn nhân và cả xã hội. Anh thường tiếp cận mục tiêu ở những nơi công cộng, giả vờ bị thương hoặc tàn tật hay đóng giả một nhân vật có thẩm quyền, trước khi đánh họ bất tỉnh rồi đưa đến địa điểm vắng vẻ để cưỡng hiếp và bóp cổ. Đôi khi anh quay lại hiện trường thứ cấp của các vụ án, chải chuốt và thực hiện các hành vi tình dục với những xác chết đang trong quá trình phân hủy cho đến khi chúng thối rữa hoặc bị động vật hoang dã hủy hoại đến mức không thể thực hiện thêm bất kỳ tương tác nào nữa. Bundy chặt đầu ít nhất 12 nạn nhân và giữ một vài thủ cấp làm đồ lưu niệm trong căn hộ của mình. Có đôi lúc, anh đột nhập vào nhà dân vào ban đêm và đánh chết nạn nhân khi họ đang say giấc. [ Đọc tiếp ]

Tuần 52

Pisco sour Peru.
Pisco sour Peru.

Pisco sour là một món cocktail có cồn bắt nguồn từ Peru, đặc trưng trong ẩm thực PeruChile. Món thức uống này được đặt tên theo từ pisco, là rượu nền dùng pha chế, kèm thuật ngữ sour, là công thức pha chế gồm có nước cốt chanh chua và thành phần chất tạo ngọt. Công thức pha chế pisco sour kiểu Peru sử dụng pisco làm rượu nền và thêm nước chanh vắt tươi, siro đường, đá viên, lòng trắng trứng và rượu đắng Angostura. Phiên bản Chile cũng tương tự, nhưng lại dùng pisco và quả chanh Pica của Chile để pha chế, không pha rượu đắng và lòng trắng trứng. Các biến thể khác của món cocktail này gồm nhiều kiểu pha chế với trái cây như dứa hoặc thực vật như lá coca.

Mặc dù pha chế đồ uống hỗn hợp bằng pisco có khả năng khởi đầu từ thập niên 1700 nhưng các sử gia và chuyên gia đồ uống đều đồng tình rằng món pisco sour ngày nay là do ông Victor Vaughen Morris, người Mỹ, phát minh vào đầu thập niên 1920 tại Lima, thủ đô Peru. Morris rời Hoa Kỳ năm 1903 đến làm việc tại thành phố Cerro de Pasco, miền trung Peru. Năm 1916, ông khai trương quán Morris' Bar ở Lima. Quán của ông nhanh chóng trở thành địa điểm nổi tiếng dành cho tầng lớp thượng lưu Peru và người nước ngoài nói tiếng Anh. Pisco sour đã trải qua vài thay đổi đến khi Mario Bruiget, một bartender người Peru làm việc tại quán Morris' Bar, tạo nên công thức pha cocktail Peru hiện đại vào cuối thập niên 1920 bằng cách thêm rượu đắng Angostura cùng lòng trắng trứng vào hỗn hợp. [ Đọc tiếp ]

Tuần 53

Logo của loạt trò chơi
Logo của loạt trò chơi

Final Fantasy là dòng trò chơi điện tử nhập vai khoa học kỳ ảothương hiệu truyền thông của Nhật Bản do Sakaguchi Hironobu tạo ra. Loạt trò chơi được phát triển và thuộc sở hữu của Square Enix (trước đây là Square). Thể loại chính của dòng game Final Fantasytrò chơi nhập vai. Trò chơi đầu tiên của dòng ra mắt vào năm 1987 và tính đến thời điểm hiện tại có tổng cộng 15 bản chính được phát hành. Final Fantasy là một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất mọi thời đại, thu về tổng cộng 11,5 tỷ đô la Mỹ tính đến năm 2020.

Mỗi phần của Final Fantasy là một cốt truyện độc lập, không có mối liên hệ gì giữa các phần với nhau. Bối cảnh, cốt truyện và nhân vật trong từng phần là khác nhau nhưng vẫn có sự liên kết bởi các yếu tố lặp đi lặp lại như game mechanic và tên nhân vật. Yếu tố cốt truyện của Final Fantasy không chỉ tập trung xoay quanh một nhóm anh hùng chiến đấu với cái ác mà còn khám phá khía cạnh nội tâm và mối quan hệ giữa các nhân vật. Tên của nhân vật thường bắt nguồn từ lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa đại chúngthần thoại của nhiều nền văn hóa trên toàn thế giới. Hệ thống chiến đấu và bản đồ của mỗi phần game đều có những sự tương đồng nhất định. Dòng trò chơi đã phổ biến nhiều tính năng của trò chơi nhập vai hiện tại cũng như truyền bá rộng rãi thể loại này ra các thị trường ngoài Nhật Bản. [ Đọc tiếp ]